Sự kiện Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Cuba có lẽ là sự kiện lớn tích cực nhất trong chuỗi các sự kiện dày đặc về quan hệ quốc tế trong năm 2014. Ngoài câu chuyện bình thường hóa, Mỹ đang trong lộ trình tìm cách dỡ bỏ từng phần cấm vận đối với nước này, mặc dù con đường dỡ bỏ cấm vận chắc chắn sẽ rất chông gai. Dẫu sao, Cuba có vẻ như đang trong giai đoạn đầu của một lộ trình chuyển đổi – con đường mà Việt Nam đã đi từ 20 năm trước.
Ngay từ đầu tháng 11 năm nay (2014), chính phủ Cuba đã ra một báo cáo kêu gọi các công ty nước ngoài đầu tư hơn 8 tỉ đô vào 246 dự án phát triển riêng biệt tại đảo quốc này. Tài liệu hiếm hoi này cho thấy những vấn đề khó khăn mà nền kinh tế và tài chính Cuba đang phải đối đầu, cùng những lập trường đối lập nhau của các nhà hoạch định kinh tế. Từ một bên, tài liệu cho thấy các nhà chức trách Cuba muốn mở rộng nền kinh tế với thị trường thế giới một cách mạnh mẽ hơn. Phía bên kia, tài liệu cũng hé lộ quan điểm cho rằng cần phải có những sách lược thận trọng.
Theo Richard Feinberg thuộc học viện Brookings, đây không phải là lần đầu tiên các nhà chức trách Cuba đưa ra một danh sách dự án chào mời vốn đầu tư nước ngoài, nhưng văn bản lần này cho thấy nhiều tham vọng và mở ra những bước tiến mới mạnh mẽ hơn cùng những áp lực trong tư tưởng của chính quyền Cuba về tương lai của đất nước.
Nghiên cứu kỹ tài liệu này (do Bộ Thương mại và Đầu tư Nước ngoài soạn) có thể giúp các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng hình dung ra một vài viễn cảnh: Cuba sẽ vẫn tiếp tục duy trì nền kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo thuộc về các tập đoàn, công ty nhà nước, và nhà cầm quyền sẽ tiếp tục trực tiếp điều tiết những định hướng và các bước đổi thay, và đa số các liên doanh với nước ngoài sẽ là các công ty do phía Cuba nắm đa số.
Theo Richard Feinberg, điều khá thú vị là Cuba thẳng thắn thừa nhận: “tốc độ tăng trưởng GDP của Cuba gần đây chỉ vừa phải, thậm chí thấp, thấp hơn mức trung bình của khu vực. Để thay đổi tình trạng này, tỷ lệ tích lũy vốn (tính trên GDP) cần phải tăng hơn 20% để giữ nhịp độ tăng trưởng GDP tăng từ 5-7%”. (Điều lạ là nội dung này đã từng được bỏ đi trong bản gốc tiếng Tây Ban Nha). Với thực tế hiện nay là tỷ lệ đầu tư quốc dân dao động trong khoảng 10%, để lấp đầy chỗ trống này thì dòng tiền đầu tư nước ngoài cần phải đổ vào Cuba phải nhiều hơn con số mà Bộ trưởng Bộ Thương mại và Đầu tư Nước ngoài, Rodrigo Malmierca, công bố khoảng từ 2 đến 2,5 tỷ USD.
Tài liệu này của Cuba cũng cung cấp một số lượng đáng kể những thông tin thẳng thắn, đầy đủ, chia theo ngành, về năng lực sản xuất hiện tại và những thiếu hụt chưa khắc phục được, là những thông tin đặc biệt cần phải nắm được về nền kinh tế Cuba. Trong đó, những lĩnh vực phát triển ưu tiên bao gồm: năng lượng, nông nghiệp và du lịch (Bảng 1). Theo đó, dễ thấy nước này đặt trọng tâm ưu tiên vào đầu tư vào sản xuất năng lượng nội địa để tránh phụ thuộc vào Venezuela. Cuba đang dành quá nhiều lượng ngoại tệ ít ỏi mà nước này có được để nhập khẩu thực phẩm nước ngoài, và đây là một cuộc khủng hoảng thực phẩm thực sự. Trong bối cảnh đó, ngành du lịch Cuba là ngành duy nhất có khả năng giúp Cuba tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ mạnh trong trung hạn.
Bảng 1: Cơ hội đầu tư chia theo ngành (không tính Khu Thương mại Tự do Mariel)
Lĩnh vực |
Số lượng dự án |
Nông nghiệp - thực phẩm |
32 |
Sản xuất đường |
4 |
Kinh doanh bán buôn |
1 |
Xây dựng |
6 |
Năng lượng tái tạo |
13 |
Công nghiệp |
10 |
Khai thác mỏ |
10 |
Dầu |
86 |
Vận chuyển |
3 |
Du lịch |
56 |
Tổng số dự án |
221 |
Nửa muốn nửa không với du lịch và nông nghiệp
Theo Feinberg, ngành du lịch cho thấy những căng thẳng nội bộ giữa các nhà hoạch định chính sách Cuba. Có rất nhiều những dự án hấp dẫn nhưng vấp phải những rào cản trong vấn đề hợp tác với nước ngoài. Cuba muốn xây dựng 21 khách sạn mới ở các khu vực Cienfuegos, Trinidad, Guardalavaca, Playa Santa Lucía và Covarrubias. Những công ty nhà nước sở hữu các khách sạn trên toàn hòn đảo này đang tìm kiếm những hợp đồng quản lý mới, trong đó bao gồm 19 hợp đồng cho các khách sạn mới xây và 14 hợp đồng cho các khách sạn đang hoạt động.
Tuy nhiên, Feinberg cho rằng chính phủ Cuba giữ lại các cơ hội đầu tư du lịch tốt nhất cho riêng mình. Tại những khu vực cho lợi nhuận tốt và ít rủi ro như Havana hay biển Varadero, sự tham gia của những nhà đầu tư “sẽ là ngoại lệ”. Những nguồn thu an toàn này được giữ để dành cho các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là tập đoàn Gaviota (có liên hệ với quân đội), được tài liệu này đề cập với niềm tự hào “là tập đoàn khách sạn phát triển nhanh nhất”. Gaviota sẽ giới hạn vai trò của đối tác nước ngoài ở hình thức hợp đồng quản lý (chứ không tham gia sở hữu) và sẽ yêu cầu đối tác không những cung cấp tài chính để xây dựng mà còn phải hỗ trợ về marketing quốc tế để đảm bảo nguồn khách ở mức có lãi.
Các chính sách về đầu tư nước ngoài trong nông nghiệp cũng cho thấy có sự thỏa hiệp. Tình trạng nông nghiệp ở Cuba đang khá thảm hại. Trong 6,3 triệu hecta đất nông nghiệp, chỉ có 2,6 triệu hecta đang được canh tác, bất chấp những nỗ lực của chính phủ để thu hút người dân trở lại với đất. Vì thế tài liệu này cho thấy Cuba muốn tìm sự trợ giúp của nước ngoài. Nước này đang tìm kiếm những cơ hội liên doanh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, chế biến thịt lợn cũng như trong canh tác cam quýt, đậu phộng và nuôi tôm. Đặc biệt hơn, Cuba sẽ chào đón một đối tác nước ngoài nào sẵn sàng đầu tư 10,3 triệu đô để xây dựng nên “một thương hiệu café cao cấp hàng đầu thế giới”, được trồng trên những khu vực nhỏ chọn lọc trên những vùng đồi của tỉnh Guatanamo. Thêm vào đó, cũng có rất nhiều cơ hội mở ra cho lĩnh vực nuôi và chế biến thịt lợn, đậu nành, trồng rau trong nhà kính, cơ sở sản xuất bánh kẹo và men khô.
Vấn đề là, theo Feinberg, Cuba vẫn muốn giữ chặt ngành mía đường và nhiều ngành khác. Chỉ có bốn nhà máy được mở cho nước ngoài dưới dạng hợp đồng quản lý (mở thêm từ những hợp đồng trước đó với một công ty của Brazil để nâng cấp một nhà máy đường ở Cienfuegos). Mục đích khiêm tốn của mỗi dự án đầu tư trị giá 40 triệu USD này nhằm để phục hồi quy mô sản xuất trước đây. Danh sách các dự án nông nghiệp chắc chắn không nhận đầu tư nước ngoài là ngành sản xuất thuốc lá và xì gà (lĩnh vực tiếp thị và quảng bá xì gà đã thuộc về một công ty lớn của Anh là Imperial Tobacco) cùng với ngành đánh bắt và chế biến tôm hùm.
Cởi mở trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp
Cuba tỏ ra rất cởi mở về đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng với hai mục đích rõ rệt. Thứ nhất là tăng sản xuất dầu lửa và khí đốt (để giảm lệ thuộc vào một Venezuela đang suy yếu). Thứ hai là để tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo từ 4% hiện nay lên khoảng 24% vào năm 2030 (chủ yếu vào điện gió, thủy điện, và điện mặt trời). Cuba cho phép sở hữu nước ngoài 100% trong các trang trại điện gió, với mục tiêu sẽ đầu tư 285 triệu USD để sản xuất ra 174MW điện tại tỉnh Guatanamo và 200$ triệu USD để tạo ra 102MW điện tại tỉnh Holguin. Nhưng theo Feinberg, các dự án kinh doanh năng lượng cho dù một phần hay hoàn toàn thuộc sở hữu nước ngoài, cũng phải bán đầu ra của họ với mức giá được định trước cho hệ thống phân phối của nhà nước.
Bảng 2: Lĩnh vực công nghiệp có cơ hội đầu tư vào Cuba
(Bên ngoài khu thương mại tự do Mariel)
Dự án (chia theo ngành) |
Lượng đầu tư dự kiến (triệu USD) |
Sản xuất lốp ô tô |
223 |
Sản xuất chai thủy tinh |
70 |
Sản xuất lon nhôm |
40 |
Giày dép |
20 |
Điều hòa không khí |
15 |
Đồ pha lê |
10 |
Tổng số tiền kêu gọi đầu tư |
378 |
Các ngành công nghiệp khác cũng được mời chào đầu tư bao gồm sản xuất lốp ô tô (có số tiền đầu tư được chào mời lớn nhất), chai thủy tinh, vỏ lon bằng nhôm (một dự án đầu tư liên doanh trong danh sách được đề xuất để sản xuất 577 triệu lon, cho hai khách hàng chính là hai công ty liên doanh hiện nay - công ty bia Bucanero và công ty sản xuất nước đóng chai-soda Los Portales của Nestlé), sản xuất máy tính để bàn và máy tính bảng (chỉ kêu gọi đầu tư có 9.6 triệu USD).
Theo Feinberg, với sự trợ giúp của một công ty xây dựng lớn của Brazil, Cuba đã xây dựng nên khu thương mại tự do Mariel tại phía tây Havana, đối diện với eo biển Florida. Khu thương mại được khai trương khá rầm rộ một năm trước đây nhưng những dự án đầu tư lớn lại vẫn chưa xuất hiện, mặc dù chính phủ đã khẳng định rằng nhiều đề xuất đang được xem xét nghiêm túc. Đối với khu vực thương mại tự do Mariel, tài liệu mới được công bố này đã liệt kê ra 25 dự án xuất khẩu được định hướng nhấn mạnh vào y tế, nông nghiệp và công nghiệp chiếu sáng.
Cải cách nhưng chưa (thể) quyết liệt
Theo Feinberg, nhìn chung, tài liệu “Những cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài” của Cuba với nhiều điều kiện và hạn chế, vẫn làm cho các nhà đầu tư quốc tế phải quan ngại về nhiều điểm. Các doanh nghiệp nước ngoài cần phải “đảm bảo” thị trường ở nước ngoài và kế hoạch kinh doanh của họ cần đưa ra dự báo về tác động (của việc kinh doanh) đối với cán cân thanh toán quốc gia. Việc tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ không được chấp thuận, mặc dù việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước nhỏ hơn thành các hợp tác xã trong các ngành dịch vụ và xây dựng đang được tiến hành. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể hợp tác với những hợp tác xã nhưng không phải với các doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ mới nổi. Tài liệu không cung cấp những thông tin hay dự báo cho những ai mong muốn tìm hiểu và tham khảo về những ngành nghề tự do. Chuyên gia của Viện Brookings cũng cho rằng tài liệu “Những cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài”, với những kết hợp đa chiều trong việc phân tích thẳng thắn và đưa ra những đề nghị hấp dẫn nhưng cũng có những yêu cầu, đòi hỏi với nhiều rào cản, cho bạn đọc một cơ hội hiếm hoi để hiểu được cuộc đấu tranh đang diễn ra trong nội bộ tầng lớp lãnh đạo của Cuba: giữa những người mong muốn thúc đẩy việc hội nhập nền kinh tế Cuba vào hệ thống thị trường thương mại và đầu tư toàn cầu, những người muốn trung thành với đường lối dân tộc xã hội chủ nghĩa có từ thời cách mạng, và những người muốn tìm kiếm những con đường trung dung hơn nhằm kiểm soát sự thay đổi một cách cẩn trọng.
*Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.