Đường dẫn truy cập

Thăm lại 'Người đàn bà trong cồn cát'


Thăm lại 'Người đàn bà trong cồn cát'
Thăm lại 'Người đàn bà trong cồn cát'

<!-- IMAGE -->

Trùng Dương, tên khai sinh là Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1944 tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bà nguyên là chủ nhiệm-chủ bút nhật báo Sóng Thần (Sài Gòn, 1971-75), và tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài, biên khảo, phóng sự, minh hoạ, và một vở kịch ba màn, Các Con Tôi Đã Về (1978) ghi lại những ngày cuối cùng ở Sài Gòn vào mùa xuân 1975. Định cư tại Hoa Kỳ từ 1975, bà trở lại trường học và tốt nghiệp ngành báo chí, công quyền và các vấn đề quốc tế tại Đại học Tiểu Bang California, Sacramento. Từ 1991-93, bà làm phóng viên cho tờ The Mountain Democrat, Placerville, Calif.; sau đó về cộng tác với nhật báo The Record, Stockton, Calif., từ cuối năm 1993 tới khi về hưu vào giữa năm 2006. Bà hiện cư ngụ tại tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ.

Bài thơ Trần Mộng Tú viết tặng tôi, "Người đàn bà ở biển", nhân chuyến ghé chơi vào mùa hè vừa qua tại ngôi nhà ven biển, làm thức dậy trong tôi hoài niệm về cuốn truyện "Người đàn bà trong cồn cát" mà tôi đã dịch của nhà văn Nhật Kobo Abe (1924-1993) cách đây bốn chục năm, từ một bản dịch tiếng Anh, không nhớ tên dịch giả. Chỉ là một sự liên tưởng, chứ hai người đàn bà của Tú và Abe không dính dáng gì tới nhau.

Tôi bắt gặp cuốn "Người đàn bà trong cồn cát" trong khi la cà trong một tiệm bán sách ngoại ngữ ở Tokyo với Bert, vào khoảng năm 1970. Thấy tôi cầm cuốn sách lật xem, Bert, lúc ấy là một phóng viên cho CBS, bảo tôi, đó là một tác phẩm rất nổi tiếng, và đã được quay thành phim, rất được tán thưởng. Tôi bảo Bert nếu vậy tôi phải đọc.

Và tôi đã đọc say sưa cuốn truyện, vào mấy ngày còn lại ở Tokyo, trên chuyến bay về Sàigòn và trong những ngày sau đó, kể cả những lúc với Bert, làm đôi lúc anh đùa, là anh tiếc đã giới thiệu cuốn sách với tôi, rồi cười. Bert, hơn tôi khoảng 10 tuổi, có một nụ cười rất hiền hoà. Tôi tìm thấy ở anh một người anh nhiều hơn là một người tình, không rõ vì sao. Chúng tôi quen nhau nhân một lần anh làm một cái phóng sự ngắn về Trịnh Công Sơn, tại nhà của một chuyên viên quay phim người Việt cho CBS. Sơn đề nghị tôi góp mặt cùng với vài ba người nữa mà tôi không còn nhớ là ai. Tôi nhớ hôm ấy Sơn hát bài "Xin Cho Tôi". Bert và tôi quen nhau từ đấy.

Đọc xong cuốn truyện chất ngất không khí Kafka đó, mặc dù thời đại văn chương hiện sinh và phi lý hồi ấy đã trở thành quá khứ, tôi vẫn thích và quyết định dịch ra Việt ngữ, mặc dù biết là dịch từ một bản dịch Anh ngữ như vậy không ổn, nhưng tôi không còn chọn lựa nào khác vì tôi không biết tiếng Nhật. Cuốn truyện đã ảnh hưởng tôi rất nhiều. Và nếu biết được điều này, có lẽ Bert sẽ tiếc thật, chứ không còn đùa, là đã giới thiệu Kobo Abe với tôi.

"Người đàn bà trong cồn cát" được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director.

Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh.

Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xoá sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm -- phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu Nơi Chôn Nhau Cắt Rốn Của Mình", châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó.

Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng.

Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này.

Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bẩy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi "tại sao Niki chọn ở lại" to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao. Riêng tôi hồi ấy rất thích thú với việc Niki chọn ở lại và, tôi lý luận, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời anh có được sự tự do chọn lựa, và anh ta đã chọn ở lại, một phần cũng vì anh ta cảm thấy mình có thể có ích đối với dân làng do việc khám phá ra cách trữ nước ngọt. Biết đâu anh ta cũng sẽ thuyết phục được dân làng là cách hay nhất để ngăn làng khỏi bị cát chôn vùi là trồng cây ven biển mà anh ta đã đề cập tới với người đàn bà. Ngoài ra, một khi tạo được uy tín với dân làng, biết đâu anh chẳng thuyết phục được họ chấm dứt trò bất hợp pháp, đó là đem cát có lẫn muối bán cho những hãng xây cất, như anh đã được người đàn bà cho biết và đã phản đối. Hồi ấy vốn lãng mạn, nên tôi nghĩ có thể Niki cũng lãng mạn như vậy, nên đã chọn ở lại.

Khi Bert hết hạn công tác phải trở về Mỹ, tôi đang dịch những trang cuối cùng của cuốn sách. Bị lôi cuốn vào không khí mê hoặc của cuốn truyện, tôi tiễn anh nhưng không buồn lắm. Vả lại, giữa Bert và tôi có những khác biệt, đặc biệt về cái nhìn đối với cuộc chiến lúc bấy giờ. Bert thuộc lớp người chống lại việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Còn tôi nhìn Nam Việt Nam như mảnh đất tự do cuối cùng phải bảo vệ bằng mọi cách, và cần Hoa Kỳ tiếp sức hỗ trợ. Mặc dù theo cha mẹ di cư vào Nam lánh nạn cộng sản từ hồi còn bé, chưa thể có một ý niệm chính trị gì, nhưng tôi lớn lên ở miền Nam tương đối có ít nhiều tự do. Ngoài những sách vở, tranh nghệ thuật và phim ảnh Âu Mỹ, đặc biệt là những tác phẩm hiện sinh mà tôi đã có dịp làm quen, tôi cũng còn tự do ngụp lặn trong kho tàng văn học cổ xưa cũng như những sách báo của thời tiền chiến, muốn nghĩ gì và cảm ra sao về những cái mình đã đọc đã xem thì nghĩ thì cảm, và không ai bảo tôi phải nghĩ theo chiều hướng, đường lối hay chủ trương nào mới đúng.

Hơn thế nữa, hồi ấy tôi đặc biệt chịu ảnh hưởng của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm của giữa thập niên 1950, đã được học giả Hoàng Văn Chí ghi nhận và biên soạn thành cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" (Sàigòn, 1959). Nếu phải nói cuốn sách nào ảnh hưởng tới việc cầm bút của tôi nhất, tôi sẽ không ngần ngại nói đó là cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc".

Nói tới ảnh hưởng của cuốn "Trăm Hoa" tức là nói tới ảnh hưởng của những người đã đóng góp vào phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi ít nhớ thơ, đặc biệt thơ tình nói chung và tiền chiến nói riêng, nhưng tôi nhớ những câu thơ của Trần Dần qua bài "Nhất Định Thắng" -- Tôi bước đi / không thấy phố / không thấy nhà / chỉ thấy mưa sa / trên mầu cờ đỏ ... Hoặc của Phùng Quán, qua "Lời Mẹ Dặn" -- Tôi muốn làm nhà văn chân thật / chân thật trọn đời / Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi / Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã / Bút giấy tôi ai cướp giật đi / Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá ... Những câu thơ đó đến trong tôi hơn chục năm sau đó trong thời kỳ tranh đấu cho quyền tự do báo chí (song song với việc chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội) vào những năm 1972-75 ở Miền Nam, mà nhiều người tưởng lầm là tôi và các bạn hữu cùng lý tưởng của tôi hồi ấy chống chế độ Sàigòn. Hồi mới 18, 20 tuổi, tôi đã biết đọc say sưa những bài lý luận của những Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường trong “Tră m Hoa” (có lẽ đấy là một trong những lý do tôi theo học Luật một dạo). Ý niệm về thể chế cộng sản đối nghịch với thể chế tự do của bên quốc gia cũng thành hình trong tôi từ đó.

Dịch xong cuốn truyện "Người đàn bà trong cồn cát" và trao cho nhà xuất bản An Tiêm in và phát hành, tôi được nhật báo Thần Phong -- không nhớ do ai đề nghị -- mời viết cho một cái feuilleton. Hồi ấy, tuy đã có tên tuổi trong làng văn nghệ qua một số truyện ngắn đăng phần lớn trên những tạp chí văn học, như Bách Khoa, Văn, Thời Tập, rồi sau xuất bản thành sách (như tập truyện "Vừa đi vừa ngước nhìn", "Mưa không ướt đất", "Chung cư", vv.), nhưng tôi không viết feuilleton đăng báo hàng ngày như các bạn đồng nghiệp thuộc phái nữ, trong đó có Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nhã Ca và Nguyễn thị Hoàng. Có người, như Túy Hồng, bỏ nghề dậy học để chỉ viết feuilleton, kiếm sống khá. Phải nói là tôi không dám viết feuilleton thì đúng hơn, vì không ghép mình được vào thứ kỷ luật của việc viết truyện cho báo hàng ngày: không muốn, hay đau ốm, cũng phải viết -- chỉ nghĩ tới đó thôi là tôi đã muốn phát rét rồi. Vả lại, tôi đã để ... "bị mang tiếng" một lần, với chủ bút tạp chí Văn hồi ấy là Trần Phong Giao, khi bỏ dở chừng truyện dài "Bầy kên kên" mới đăng được có vài kỳ. Có đời thủa nhà ai mà ông chủ bút phải xách xe mô-bi-lết ... đi tìm tác giả, dụ viết tỉếp. Tôi vẫn còn nhớ lời anh ấy bảo tôi, "Toa để ý tới động tác, đừng đào sâu vào tâm tình, dễ bị thất lạc." Tôi ậm ậm ừ ừ, rồi vẫn tiếp tục… lặn kỹ, làm anh ấy cuối cùng đành bỏ cuộc và cáo lỗi với độc giả, không biết dùng lý do gì, và tôi cũng chẳng dám hỏi tới.

Vậy mà tôi nhận lời viết feuilleton cho Thần Phong. Và lạ một điều là tôi viết xong cái feuilleton -- đầu tiên và cuối cùng -- đó, không nhớ là trong bao lâu. Tên của truyện dài đó là "Thành trì cuối cùng" (*), lồng trong đó là cái liên hệ giữa tôi và Bert, mang cái kết cục giống như trong "Người đàn bà trong cồn cát": nhân vật nữ chính có cơ hội để rời khỏi một đất nước chiến tranh theo người yêu đi lập nghiệp ở nước ngoài, nhưng nàng từ chối và ở lại, vân vân. Thực ra tôi hơi “cương” một chút, vì hồi ấy Bert đã có vợ nhưng không hạnh phúc. Anh lên đường về Mỹ, nói sẽ giữ lien lạc, nhưng không dám hứa hẹn gì, vì đã có một đôi lần xin ly dị nhưng bà vợ không chịu.

Vào đầu năm 1973, Bert có trở lại Saigon, nhờ người đi tìm tôi, lúc ấy đang làm tờ Sóng Thần và vừa ... chôn người chồng tử sĩ xong, nên tôi chỉ nhắn với chị bạn đến gặp tôi là cho tôi gửi lời hỏi thăm và cám ơn thiện chí của Bert. Khi đang nằm trong trại tị nạn Camp Pendleton, Nam California, vào giữa năm 1975, tôi được tin Bert đã lập gia đình lại và đã có hai con. (TD, 12/2009)

Ghi chú:

(*) Bản thảo "Thành trì cuối cùng" đã thất lạc. Tuy nhiên, trọn bộ báo Thần Phong hiện được lưu giữ dưới dạng microfilm tại thư viện Kroch Asia thuộc Đại học Cornell, New York.

Tin Vắn Thế Giới

XS
SM
MD
LG