Tình trạng các quan chức kết nối với doanh nghiệp làm lợi cho nhau đã diễn ra ở Việt Nam hàng chục năm nay, gây méo mó cho nền kinh tế, và Nhà nước cần cải thiện cơ chế minh bạch, giám sát quyền lực cũng như tiền lương để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia kinh tế nói với VOA.
Chỉ trong thời gian ngắn, Việt Nam đã phanh phui ra hai tập đoàn có quan hệ dây mơ rễ má với các quan chức từ cấp tỉnh lên đến cấp trung ương: tập đoàn Phúc Sơn và tập đoàn Thuận An. Các lãnh đạo của hai tập đoàn này đều đã bị bắt giữ để điều tra về các hành vi ‘Vi phạm về các quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng’ và ‘Hối lộ’.
Đáng chú ý là các vụ việc này đã khiến một số lãnh đạo cấp cao của Việt Nam phải ra đi như Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng hồi tháng Ba do lính líu đến tập đoàn Phúc Sơn và mới đây là Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ sau khi hồi đầu tuần này trợ lý của ông bị bắt giam do dính líu đến tập đoàn Thuận An.
Bên cạnh đó, hàng loạt quan chức cấp tỉnh từ bí thư, chủ tịch tỉnh cho đến trưởng ban quản lý dự án một số tỉnh thành cũng xộ khám vì bị phát hiện nhận hối lộ để bao che hay ưu ái cho các các tập đoàn này.
“Tình trạng sân sau có sự can thiệp của những người có quyền lực là hệ quả của một hệ thống pháp luật không cụ thể và chồng chéo, trùng lắp và có điểm mâu thuẫn với nhau,” Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, cựu thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, nhận định với VOA.
Ông chỉ ra ví dụ luật đất đai có nội dung liên quan nhưng lại chỏi nhau với luật đầu tư công, luật nhà ở, luật đấu thầu… Điều đó khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro pháp lý vì hoạt động của họ có thể phù hợp với điều luật này nhưng lại vi phạm điều luật khác. Do đó, họ phải tìm đến sự bảo trợ của các quan chức.
“Theo cảm quan của tôi và qua tiếp xúc với các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp tư nhân khi muốn kinh doanh ở Việt Nam đều muốn có mối quan hệ và được sự che chở của một hay nhiều người có quyền lực liên quan đến lĩnh vực họ kinh doanh. Điều ấy sẽ dẫn đến môi trường kinh doanh không công khai, không minh bạch, không trong sạch và có thể bị bóp méo vì những lợi thế không phải năng suất lao động, không phải do tiến bộ khoa học kỹ thuật,” ông Doanh nói.
Tiến sỹ Nguyễn Quang A, cựu giám đốc Viện nghiên cứu phát triển IDS và hiện là một nhà bất đồng chính kiến ở Hà Nội, nói với VOA rằng trong một nền kinh tế phát triển khá nhanh như Việt Nam thì ‘chắc chắn sẽ xảy ra’ tình trạng quan chức móc ngoặc với doanh nghiệp để chia chác thành quả cũng như tài nguyên đất nước.
“Người ta (quan chức) có thể nghĩ rằng để cho nền kinh tế phát triển được như thế cũng là cái công của người ta nên họ cũng phải được hưởng một phần gì đó,” ông nhận định.
“Lẽ ra phần người ta được hưởng là phải được quy định rất rõ ràng trong luật, như lương, thưởng đàng hoàng cho các quan chức người ta được hưởng một cuộc sống có thể là không rất giàu nhưng cũng không kém những người làm trong các doanh nghiệp bao nhiêu.”
Theo quan sát của ông A thì lương quan chức hiện giờ ‘rất thấp so với các doanh nhân’. “Từ mớ bòng bong đó dẫn đến một khế ước xã hội ngầm là phải chia chác bằng một cách gì đấy phần lợi nhuận sinh ra,” ông phân tích.
“Khi cơ hội nảy sinh thì không thể không có chuyện người ta bằng cách này hay cách kia tham nhũng,” ông nói thêm và cho rằng dễ nhất là ‘quyền quản lý đất, quyền cấp phép cái này, cái kia, tạo điều kiện trúng thầu’.
Theo lời ông thì điều này ‘cũng là đúng’ vì ‘con người ai cũng có nhu cầu về vật chất tiền bạc’ và Đảng không thể đòi hỏi các cán bộ của mình ‘phải cống hiến, phải hy sinh vì nước để chấp nhân mức lương thấp’.
Ông A cho biết tình trạng này đã xảy ra ở Việt Nam được 30-40 năm rồi và ‘quy mô hành vi ngày càng lớn theo quy mô nền kinh tế’ và ‘không chỉ ở các quan chức cấp cao trong phạm vi tứ trụ mà là toàn bộ bộ máy Nhà nước’.
“Có một nghịch lý là thu nhập chính thức của các quan chức Nhà nước từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh rất thấp so với mặt bằng thị trường nhưng ai cũng muốn chạy để vào được các chức đấy,” ông chỉ ra.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh thì chỉ ra cơ chế giám sát quyền lực của Việt Nam: “Tình trạng này xuất hiện bởi vì hiện nay cơ chế giám sát quyền lực của Việt Nam vẫn còn có những lỗ hổng, như chúng ta đã thấy rất nhiều những bí thư, chủ tịch một số tỉnh đã bị bắt. Điều đó chứng tỏ những người này đã hoạt động mà không có sự giám sát có hiệu lực để ngăn chặn kịp thời những vi phạm của họ.”
Tiến sỹ Võ Trí Thành, nguyên phó Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương, nói với VOA rằng các văn bản chính thức của chính quyền Việt Nam đều có đề cập đến vấn đề này và hệ quả tiêu cực của nó đối với nền kinh tế.
“Đây là một hiện tượng không tốt cho phát triển kinh tế nhất là nhìn trong dài hạn, nguồn lực phát triển méo mó và gây ảnh hưởng niềm tin xã hội vào con đường phát triển, cải cách của Việt Nam,” ông cho biết.
Theo giải thích của ông thì việc các doanh nghiệp đưa tiền bôi trơn cho các quan chức để họ được kinh doanh thuận lợi sẽ ‘dẫn đến nguồn lực bị phân bổ méo mó vì nó không dựa trên các yếu tố cạnh tranh, minh bạch, đặc biệt là nguy hại trong phát triển nguồn lực, khiến cho nguồn lực không được phân bổ đến nơi tốt nhất có thể’.
Về cách giải quyết như thế nào, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh cho rằng hiện nay Chính phủ Việt Nam đang cố gắng cải thiện môi trường luật pháp để nó được rõ ràng hơn, công khai hơn và minh bạch hơn. Tuy nhiên, dù có cải thiện nhưng môi trường kinh doanh Việt Nam ‘hiện vẫn ở mức trung bình thấp’, cũng theo lời ông Doanh.
“Theo tôi thì phải chuyển đổi mạnh sang kinh tế số, doanh nghiệp số, chính phủ điện tử mới cải thiện được tình hình hiện nay,” ông nói.
Ngoài ra, ông cũng cho rằng Chính phủ Việt Nam cần phải ưu tiên xây dựng hệ thống giám sát quyền lực.