Nghiên cứu để ngăn chặn đại dịch lại có thể khơi mào một đại dịch khác, phải làm sao?

Các nhà nghiên cứu cho chồn sương nhiễm virus gia cầm để xem điều gì sẽ làm cho nó dễ lây truyền hơn.

Điều gì sẽ biến cúm gia cầm - vốn đã giết chết hàng triệu con chim và hàng trăm người trên khắp thế giới - trở thành đại dịch chết người tiếp theo?

Các nhà khoa học muốn biết để họ có thể đi trước. Đó là lý do tại sao vào năm 2010, hai nhóm nghiên cứu điều nghiên một loại virus cúm gia cầm đã giết chết khoảng một nửa số người nhiễm bệnh nhưng không dễ dàng lây lan từ người sang người. Các nhà nghiên cứu cho chồn sương nhiễm virus này để xem điều gì sẽ làm cho nó dễ lây truyền hơn. Phổi và đường hô hấp của chồn sương rất giống chúng ta.

Nhà vi sinh học Michael Imperiale của Đại học Michigan nói: “Họ làm một con chồn nhiễm virus, đợi một khoảng thời gian nhất định, lấy virus từ con chồn đó và lây nhiễm cho con chồn tiếp theo”.

Sau 10 vòng, virus đã đột biến thành một dạng nguy hiểm hơn nhiều. “Họ không cần phải truyền virus từ con chồn này sang con chồn khác,” ông nói. “Nếu họ cho các con chồn ấy ở gần nhau, chúng có thể truyền cho nhau.”

Virus đó có khả năng gây đại dịch.

Các nhà khoa học đã hình dung được những phần nào của virus đã biến đổi để khiến nó lây lan dễ dàng hơn. Họ nói rằng điều đó có thể giúp các chuyên gia tìm ra loại virus nguy hiểm tiếp theo và có thể giúp phát triển các loại thuốc và vắc-xin.

Mặt khác, các nhà nghiên cứu vừa tạo ra một mối đe dọa dịch bệnh mới, dễ lây lan và chết người. Nếu nó thoát ra khỏi phòng thí nghiệm bằng cách nào đó, nó có thể gây ra đại dịch toàn cầu.

Rò rỉ phòng thí nghiệm rất hiếm nhưng chúng vẫn xảy ra. SARS đã thoát khỏi các phòng thí nghiệm ở Singapore, Đài Loan và Trung Quốc vào đầu những năm 2000. Một tai nạn trong phòng thí nghiệm ở Anh đã dẫn đến bùng phát dịch lở mồm long móng ở gia súc.

Nhà dịch tễ học Marc Lipsitch của Đại học Harvard nói: “Điều đó chỉ cho thấy rằng ngay cả những phòng thí nghiệm tốt nhất trên thế giới cũng không được bảo vệ hoàn toàn khỏi các tai nạn”. “Con người có thể sai lầm.”

Theo nhà vi sinh học Richard Ebright của Đại học Rutgers, các thí nghiệm cúm gia cầm đã gióng lên hồi chuông cảnh báo khi các nhà nghiên cứu công bố kết quả của họ vào năm 2011.

“Tôi nghĩ mọi người khi nghe kết quả đều ngạc nhiên, thứ nhất, rằng bất kỳ ai cũng có thể bị thách thức về mặt đạo đức khi tiến hành một thí nghiệm như vậy; và thứ hai, ngạc nhiên rằng không có bất kỳ cơ chế giám sát nào có thể ngăn cản một nhà nghiên cứu tiến hành một thí nghiệm như vậy,” ông nói.

Không phải ai cũng nghĩ rằng các thí nghiệm về cơ bản là một ý tưởng tồi. Nhưng họ đã khởi động một nỗ lực để giám sát nhiều hơn.

Theo nhà vi sinh học Imperiale của Đại học Michigan, loại nghiên cứu đó đáng giá trong hai điều kiện.

“Có phải nó đang giải quyết một vấn đề y sinh cấp bách, [mà] chúng ta phải có câu trả lời? Đấy có thực sự là cách duy nhất hoặc cách tốt nhất để giải quyết vấn đề đó mà các phương pháp khác sẽ không đưa bạn đến câu trả lời mà bạn cần không? Và nếu câu trả lời cho hai câu hỏi đó là có, sau đó hãy tìm ra cách để làm điều đó một cách an toàn,” ông nói.

Nhà chức trách y tế Hoa Kỳ thiết lập một khuôn khổ để đặt ra những câu hỏi đó và quyết định nghiên cứu nào sẽ nhận được tài trợ.

Tuy nhiên, ông Ebright nói, “khuôn khổ đó có vẻ đúng trên giấy tờ nhưng nó chưa thực sự xảy ra trong thực tế.”

Ông nói rằng một số dự án nghiên cứu lẽ ra phải được xem xét kỹ lưỡng hơn thì không, bao gồm cả nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ ở Vũ Hán, Trung Quốc, về điều gì sẽ khiến virus corona dễ lây nhiễm hơn cho con người. Ông Ebright cho rằng cuộc nghiên cứu đó có thể là nguồn gốc của virus COVID-19.

COVID-19 đến từ đâu đang được tranh luận gay gắt. Nhưng đại dịch virus corona đã thu hút nhiều nghiên cứu về vi trùng có khả năng gây đại dịch.

Ông Lipsitch nói: “Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng đây không phải là chuyện giỡn. Nó không nhất thiết phải là một loại virus gây chết người 50% mới có thể gây ra sự gián đoạn xã hội toàn cầu và rất nhiều thiệt hại và chúng ta cần phải thực sự cẩn thận”.

“Tôi nghĩ rằng nó đã thúc đẩy một số suy nghĩ thận trọng hơn về giám sát nhưng thực sự giám sát vẫn chưa được thực hiện,” ông nói thêm.

Một hội đồng cố vấn của Hoa Kỳ đã khuyến nghị các cách thức để thắt chặt các hướng dẫn. Các chuyên gia nói rằng họ đã bước đi đúng hướng nhưng vẫn còn sơ hở. Một số người cho rằng nên làm thành luật thay vì là đưa ra những hướng dẫn.

Mặt khác, ông Lipsitch lưu ý, “có nguy cơ thực sự là Quốc hội sẽ phản ứng thái quá và hạn chế quá mức các nghiên cứu hết sức có giá trị và hoàn toàn an toàn nhằm hạn chế nghiên cứu ít giá trị hơn và nguy hiểm hơn.”

Ngoài ra, các quy tắc sẽ chỉ áp dụng cho nghiên cứu do Hoa Kỳ tài trợ. Các quốc gia khác cũng cần phải làm như vậy, ông Imperiale nói.

Ông nói: “Nếu đây không phải là một dạng đồng thuận quốc tế nào đó, thì chúng ta sẽ không đạt được những gì chúng ta thực sự muốn đạt được ở đây, đó là giữ cho thế giới được an toàn.” “Bởi vì, như chúng ta đều biết, các tác nhân truyền nhiễm không tôn trọng các biên giới quốc gia.”