Bàn thêm về làn sóng tư nhân hóa mới: không thể không làm?
Trong một bài trước, tôi đã nhận định rằng những nỗi lo sợ mới đây liên quan đến cổ phần hóa chủ yếu là do việc bán các tài sản trọng yếu trong lĩnh vực hạ tầng. Thế nhưng nhìn rộng ra, quá trình tư nhân hóa, gọi nhẹ đi là “cổ phần hóa”, hoặc nhẹ hơn nữa là “xã hội hóa” không dừng lại trong lĩnh vực kinh tế truyền thống mà đang lan ra nhiều lĩnh vực “nhạy cảm khác”, không chỉ có hạ tầng, mà thậm chí còn cả y tế hay giáo dục.
Lý do chính yếu nhất là ngân sách. Trong lĩnh vực giáo dục chẳng hạn, do nguồn thu ngân sách bị thu hẹp, và gánh nặng chi cho giáo dục ngày càng gia tăng, chính phủ đã có chủ trương xã hội hóa từ nhiều năm nay. Hàng loạt các địa phương, từ Hà Tĩnh, Quy Nhơn, Nha Trang, Ninh Thuận, đến Long An, Sóc Trăng, Rạch Giá đã thực hiện chuyển đổi nhiều trường phổ thông công lập hoặc bán công thành trường tư thục. Sắp tới, với bước khởi điểm là giao các đơn vị sự nghiệp giáo dục và y tế tự chủ tài chính, việc cổ phần hóa có nhiều khả năng sẽ lan dần sang nhóm hệ thống các bệnh viện, các trường đại học và cao đẳng công lập.
Không thể không làm?
Các nỗi sợ này là có cơ sở, và vì thế chúng không phải là vô hình. Và vì thế, những tiếng nói phản biện, dù đứng trên lập trường nào, cũng đều đáng trân trọng. Thế nhưng đặt vấn đề ngược lại, sẽ có hai câu hỏi hết sức quan trọng. Thứ nhất là có tránh được việc phải tư nhân hóa hay không? Và thứ hai, nếu không tránh được, thì có cách gì để những nỗi sợ trên biến mất hay không?
Từ câu hỏi thứ nhất, phải nhìn thẳng vào sự thật là nhà nước hầu như không có lựa chọn nào ngoài việc phải tư nhân hóa hay xã hội hóa. Từ nhiều năm trở lại đây, Việt Nam luôn thâm hụt ngân sách với con số tuyệt đối (tính bằng Đồng) và tương đối (tính bằng tỷ lệ % so với GDP) ngày càng lớn. Mức trần thâm hụt mà Quốc hội cho phép là 5,3% GDP, nhưng theo nhiều nguồn phân tích thì con số thực tế cao hơn. Thí dụ ADB ước tính thâm hụt ngân sách năm 2013 của Việt Nam là 5,5%, chưa kể các khoản chi ngoài ngân sách lớn mà theo tổ chức này là khó ước tính vì thông tin không minh bạch.
Vì thâm hụt liên tục nhiều năm và với quy mô ngày càng lớn, tình trạng nợ công đang ngày càng rơi vào thế bế tắc trừ khi có giải pháp triệt để. Tổng dư nợ công năm 2013 là 54,2% nhưng sang 2014 đã thành 60,3% (tăng 6,1% trong một năm). Nếu không có các biện pháp cấp cứu mạnh mẽ, tỉ lệ này sẽ vượt ngưỡng cho phép 65% trong vòng một vài năm tới.
Chính vì thế, khả năng đầu tư mạnh vào hạ tầng bằng vốn của nhà nước xem ra bất khả thi. Tương tự, câu chuyện bao cấp các lĩnh vực phúc lợi truyền thống như y tế và giáo dục cũng không còn trong khả năng chi trả của ngân sách nhà nước như trước đây. Trong bối cảnh đó, việc “xã hội hóa” là việc bất đắc dĩ phải làm, và câu chuyện bán các tài sản hạ tầng đang có để có tiền xây dựng hạ tầng mới là việc làm khôn ngoan.
Liên quan đến câu hỏi thứ hai, thực ra tất cả các nỗi sợ trên đều có thể giảm thiểu được ở mức độ nhất định (có thể không hoàn toàn triệt để) bằng các chính sách thích hợp.
Thí dụ câu chuyện giá rẻ giá đắt, Việt Nam có thể làm với lộ trình vừa phải lúc đầu để kiểm tra khả năng hấp thụ của thị trường đối với các tài sản này. Việc chào bán nên được chuẩn bị kỹ và mở rộng ra cho các bên mua tiềm năng ở nước ngoài (không thể làm quá gấp gáp vì các nhà đầu tư thận trọng nước ngoài cần nhiều thời gian để khảo sát và tính toán trước khi quyết định). Nhà nước cũng có thể thuê các hãng tư vấn mua bán sáp nhập chuyên nghiệp để giúp bán với giá cao nhất có thể được. Dĩ nhiên, một trong những vấn đề lớn của Việt Nam là việc thiếu tính minh bạch và tình trạng tham nhũng cao. Điều này có thể làm cho câu chuyện giải pháp giảm thiểu trên trở nên vô nghĩa
Câu chuyện về nguồn gốc của nguồn tiền đầu tư tuy quan trọng nhưng cũng khó kiểm soát trong một thị trường tài chính toàn cầu như hiện nay khi các nhà đầu tư có thể dùng đủ loại công cụ tài chính để dấu nguồn gốc nguồn tiền thật sự cũng như dễ dàng mua đi bán lại ở nước ngoài mà Việt Nam không làm gì được. Vì thế, vấn đề cần thiết là việc quản lý và giám sát hoạt động của các doanh nghiệp này cũng như có hành động thích hợp, kịp thời để đảm bảo họ tuân thủ pháp luật và an ninh quốc gia của Việt Nam dù họ là nhà đầu tư đến từ đâu, chứ không phải chạy theo kiểm soát nguồn gốc nguồn tiền (cái mà dù muốn cũng không làm được).
Câu chuyện về lũng đoạn của doanh nghiệp cũng tương tự như vậy. Nhà nước hoàn toàn có thể kiểm soát bằng các chính sách liên quan đến cạnh tranh, chống độc quyền, và điều tiết thị trường. Trên thực tế thì Việt Nam vẫn thực hiện việc điều tiết này trong lĩnh vực hạ tầng, thí dụ áp trần giá phí cầu, phà, hoặc đường bộ, chứ không phải giao quyền tự quyết các loại phí này cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, câu chuyện về định hướng xã hội chủ nghĩa. Như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói gần đây, “tất cả phải đi vào kinh thế thị trường và đã là thị trường thì phải thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường”, vì thế câu chuyện doanh nghiệp nhà nước kiểm soát hoặc chi phối nền kinh tế (đặc biệt là một cách khiên cưỡng thông qua bao cấp) chắc chắn sẽ không còn thích hợp nữa. Vấn đề còn lại là bình đẳng và phúc lợi cũng có thể được giải quyết bằng các cơ chế tài trợ trực tiếp thích hợp giống như phương Tây vẫn đang làm.
*Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.