Chủ trương, thảm họa, và ‘tằm’ vẫn gánh ‘trăm dâu’

Một dân làng chèo xuồng giữa nước lụt.

Hậu quả của đợt mưa to kéo dài từ ngày 9 tháng 10 đến cuối tuần vừa qua ở miền Bắc và khu vực phía Bắc miền Trung càng ngày càng nặng nề.

Theo thống kê do Ban Chỉ đạo Phòng – Chống thiên tai của Việt Nam công bố hôm 16 tháng 10, riêng về nhân mạng đã có 72 người chết, 30 người vẫn còn mất tích. Đối với tài sản, lũ, lụt, sạt lở đất đã làm hư hỏng khoảng 50.000 căn nhà. Chưa có thống kê về thiệt hại đối với nông nghiệp nhưng tổn thất của nông dân chắc chắn rất kinh khủng khi vốn liếng, mồ hôi của họ đổ vào ruộng, vườn, ao, hồ đã bị nước lũ và đất đá xóa sạch. Ban Chỉ đạo Phòng – Chống thiên tai ước đoán, riêng chăn nuôi, chỉ trong vòng một tuần, chừng 10.000 gia súc và 290.000 gia cầm hoặc bị nước dìm chết, hoặc bị nước cuốn trôi,… Con số liên quan đến thiệt hại về tài sản sẽ tăng thêm hàng ngàn tỉ sau khi có thống kê chính thức về sự hư hỏng của hệ thống hạ tầng (đường sá, cầu cống, đê điều, kênh mương, mạng điện, điện thoại).

Năm nay, miền Bắc và khu vực phía Bắc miền Trung Việt Nam có ít nhất bốn đợt mưa to, kéo dài nhiều ngày và theo sau đó là lũ, lụt, sạt lở xảy ra ở khắp nơi, đặc biệt là Tây Bắc, Đông Bắc, vùng đồi núi phía Bắc miền Trung. Trước những thiệt hại càng ngày càng cao về nhân mạng, tài sản, các cơ quan hữu trách ở Việt Nam, bao gồm cả Ban Chỉ đạo Phòng – Chống thiên tai lẫn các trung tâm dự báo về khí tượng – thủy văn có khuynh hướng qui trách nhiệm cho… Trời (biến đổi khí hậu, thời tiết dị thường, cực đoan, khó dự đoán).

Chẳng riêng Việt Nam, thời tiết trên toàn cầu rõ ràng là đang có nhiều diễn biến khác thường, song chẳng lẽ những vụ lũ, lụt, sạt lở đất đã xảy ra và 10.266 địa điểm ở mười tỉnh vùng núi phía Bắc hiện trong tình trạng có thể xảy ra sạt lở bất kỳ lúc nào, 2.110 điểm mà nguy cơ đất chuồi được nhận định là “rất lớn” thậm chí “đặc biệt lớn” hoàn toàn do… Trời?

Các chuyên gia của nhiều lĩnh vực đã, đang và có lẽ sẽ còn tiếp tục khẳng định không phải, chính xác là không hoàn toàn như thế!

Có thể dùng hội thảo mới nhất do Ủy ban Dân tộc của Quốc hội Việt Nam đứng ra tổ chức tại Hà Nội hôm 14 tháng 10 về lũ quét và sạt lở như một dẫn chứng.

Theo tường thuật của tờ Tuổi Trẻ thì tại hội thảo vừa kể, ông Shinro Abe – một chuyên gia cao cấp về địa kỹ thuật của Công ty Okuyama Boring (Nhật), cho rằng, lũ quét và sạt lở liên quan mật thiết đến phương thức thi công hệ thống hạ tầng giao thông. Không khảo sát kỹ và đào xới từ dưới lên trên (thay vì phải làm ngược lại) khi thi công mặt dốc dễ dẫn tới sạt lở, khó khắc phục hậu quả. Ông Vũ Mạnh Lợi, từng là Viện phó Viện Xã hội học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thì khẳng định, lũ quét, sạt lở còn do phá rừng đầu nguồn, khai thác khoáng sản vô tội vạ, cho phép đào xới lung tung, không đánh giá tác động tiêu cực đến môi trường…

Ông Lợi không phải người đầu tiên, càng không phải người cuối cùng nhận định như vậy. Hồi đầu tháng 6 năm nay, tại hội nghị về phòng chống thiên tai ở 18 tỉnh miền Bắc, ông Hoàng Văn Thắng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn từng thú nhận, ngoài tác động của biến đổi khí hậu, hậu quả của thiên tai (lụt, lũ, sạt lở, hạn hán,…) trở thành khốc liệt còn vì “phát triển thiếu bền vững, khai thác quá mức tài nguyên”.


***


Vài năm gần đây, “phát triển thiếu bền vững, khai thác quá mức tài nguyên” được giới hữu trách lập đi lập lại khá nhiều khi thảo luận về các vấn nạn kinh tế - xã hội nhưng đáng ngạc nhiên là chưa bao giờ họ phân tích cặn kẽ xem đâu là nguyên nhân.

“Phát triển thiếu bền vững, khai thác tài nguyên quá mức” khởi đầu từ lúc nào? Phải chăng là từ 1991 khi các đại biểu dự Đại hội Đảng CSVN lần thứ bảy thông qua cương lĩnh, xác định “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại” và đỉnh của “phát triển thiếu bền vững, khai thác tài nguyên quá mức” có phải từ khi Đại hội Đảng CSVN lần thứ chín (2001) đề ra chủ trương “công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn, gắn với hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” hay không?

Trung tuần tháng 11 năm 2016, khi đến thăm Bắc Ninh dự “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc”, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng CSVN, tỏ ra hết sức phấn chấn, nêu ra một câu hỏi có tính khẳng định: “Nhìn một cách tổng quát, đất nước có bao giờ được thế này không?”.

Ông Trọng hỏi dõng dạc như thế vì “kinh tế Việt Nam phát triển, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng cao, Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới, tham gia tất cả các tổ chức quốc tế”.

Song “nhìn một cách tổng quát”, rõ ràng là chưa thế hệ nào ở Việt Nam phải liên tục đọc, nghe, xem nhiều thông tin, hình ảnh thương tâm về hậu quả của thiên tai đổ lên đầu đồng bào của mình dồn dập như vài năm gần đây.

Tháng 1 năm 2015, sau khi “nhìn một cách tổng quát”, The Economist – một tạp chí về kinh tế của Anh – từng kể rằng, dẫu thiên hạ luôn xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng tác động đến môi trường của từng dự án thủy điện nhưng Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) cho biết, Việt Nam chưa bao giờ công bố những tài liệu kiểu đó đối với các công trình thủy điện mọc lên như nấm trên khắp Việt Nam.

The Economist gọi nỗ lực phát triển thủy điện để thỏa mãn nhu cầu năng lượng cho đến năm 2020, bất kể nỗ lực đó hủy diệt các cánh rừng già, những dòng sông, biến nông dân thành nạn nhân của lũ, lụt, sạt lở, động đất là thiển cận và dự đoán giá sẽ rất đắt. Đối tượng thanh toán trực tiêp sẽ là người nghèo, đặc biệt là thành viên các cộng đồng thiều số.

“Nhìn một cách tổng quát”, kế hoạch phát triển thủy điện ồ ạt là con đẻ của chủ trương “công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn, gắn với hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Phải tới năm 2013, sau khi thủy điện dã trở thành đại họa của nhiều vùng, dân chúng liên tục cất tiếng oán thán, Quốc hội Việt Nam mới cử Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường thẩm tra các công trình thủy điện. Theo ủy ban này, việc quản lý chất lượng, an toàn tại các công trình thủy điện đặc biệt là các công trình thủy điện vừa và nhỏ tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường: Khoảng 30% đập chắn nước chưa được kiểm định. Khoảng 66% đập chắn nước chưa được duyệt phương án bảo vệ. Khoảng 55% chủ đập chưa có phương án phòng chống lụt bão. Đáng lưu ý là 160 dự án thủy điện thực hiện từ 2006 đến 2012 đã hủy diệt 19.792 héc ta rừng.

Cũng trong năm 2013, chính phủ Việt Nam tiến hành “rà soát quy hoạch thủy điện” và cho biết đã loại bỏ 424 dự án, không đưa vào quy hoạch 172 “vị trí tiềm năng”, tạm dừng có thời hạn 136 dự án, tiếp tục đánh giá 158 dự án khác. Cho đến lúc đó, Việt Nam vẫn còn 815 dự án thủy điện phục vụ công cuộc “công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn, gắn với hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Năm sau (2014), chính phủ Việt Nam chính thức thú nhận, những dự án thủy điện vừa và nhỏ là nguyên nhân chính tăng thêm đói nghèo, đẩy người thiểu số tới tột đỉnh của sự bần cùng. Từ khi có các dự án thủy điện, vào mùa khô, cả điện lẫn nước ở nhiều khu vực cùng thiếu. Hạn hán đang theo xu hướng năm sau nghiêm trọng hơn năm trước. Chuyện xả lũ vô tội vạ của các nhà máy thủy điện sau những trận bão lớn còn làm chết thêm hàng trăm người, phá hủy nhiều khu dân cư, ruộng vườn, khiến hậu quả thiên tai thêm trầm trọng.

Tháng 3 năm nay, trong một công điện gửi cho nhiều cơ quan hữu trách, Thủ tướng Việt Nam yêu cầu gia tăng kiểm soát việc quy hoạch, đầu tư, xây dựng, vận hành các công trình thủy điện. Bộ Công Thương được yêu cầu phải cương quyết loại bỏ các dự án, công trình thủy điện không hiệu quả, không an toàn, ảnh hưởng bất lợi tới dòng chảy, môi trường và đời sống dân chúng. Đồng thời phải cùng với Bộ Tài nguyên – Môi trường hoàn thiện quy trình vận hành các hồ chứa để vừa bảo đảm hiệu quả phát điện, vừa đáp ứng nhu cầu sử dụng nước ở khu vực hạ du trong mùa khô, cắt - giảm lũ và các tác động tiêu cực trong mùa mưa. Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn thì được yêu cầu buộc chủ đầu tư các dự án thủy điện trồng rừng thay thế ngay lập tức. Đến lúc đó, diện tích rừng được trồng để thay thế chỉ chừng 3,7%.

Tới tháng 7, tại một hội thảo do Hiệp hội Năng lượng Việt Nam tổ chức, chính quyền nhiều địa phương khăng khăng xin thực hiện thêm các dự án thủy điện vừa và nhỏ, còn Bộ Công Thương công khai tán thành.

Chẳng hạn, tuy Bộ Công Thương đã loại bỏ 54/123 dự án thủy điện vừa và nhỏ ở Lào Cai nhưng chính quyền tỉnh này vừa xin “bổ sung vào quy hoạch thủy điện” mười dự án khác. Ngoài Lào Cai, chính quyền các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk cũng đang làm như thế. Quảng Trị đang xin “bổ sung bốn dự án thủy điện” sau khi có 10 dự án thủy điện bị loại ra khỏi quy hoạch. Quảng Nam muốn “bổ sung 14 dự án thủy điện”. Theo quy hoạch, Đắk Lắk chỉ còn 9 dự án thủy điện nhưng đã thành công trong việc vận động Bộ Công Thương trình chính phủ Việt Nam bổ sung vào quy hoạch thủy điện của tỉnh này sáu dự án thủy điện khác…


***


Thống kê được công bố tại hội thảo về lũ quét và sạt lở diễn ra hôm 14 tháng 10 cho biết, trong mười lăm năm, từ 2000 đến 2015, tại Việt Nam xảy ra 250 vụ lũ quét và sạt lở khiến 646 người chết và mất tích, 351 người bị thương, tổng thiệt hại tài sản khoảng 3.300 tỉ.

Chưa rõ tại sao thống kê chỉ được thực hiện đến năm 2015. Nếu thống kê bao gồm những số liệu của năm 2016 và từ đầu 2017 đến nay, số vụ lũ quét lẫn sạt lở cũng như tổng thiệt hại nhân mạng, tài sản ắt sẽ kinh khủng hơn nhiều (hồi đầu năm nay, Tổng cục Thống kê của Việt Nam từng cho biết, riêng năm 2016, ngoài việc làm 246 người chết và mất tích do lũ quét, sạt lở, lụt, thiên tai nói chung - bao gồm cả các đợt rét đậm, rét hại ở miền Bắc, khô hạn ở Tây Nguyên và nước mặn xâm nhập sâu vào đồng bằng sông Cửu Long - đã làm Việt Nam mất 40.000 tỉ đồng, tương đương 1,8 tỉ Mỹ kim).

Giống như nhiều viên chức điều hành các công trình thủy điện khác, ông Đặng Trần Công, Chánh Văn phòng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, mới khẳng định với báo giới rằng việc mở tám cửa xả của hồ chứa nước cho nhà máy này trong hai ngày 10 và 11 tháng 10 là “đúng qui trình”. Việc mở đồng loạt tám cửa xả có thể khiến lũ lụt ở khu vực hạ du thêm trầm trọng, thậm chí gây thêm tổn thất nhân mạng và tài sản nhưng không thể trách ông Công, cũng chẳng thể trách Công ty Thủy điện Hòa Bình. Khi phê duyệt, ban hành “qui trình”, Thủ tướng buộc phải quan tâm đến “bảo đảm an toàn công trình”, đập chắn nước của một công trình thủy điện vỡ, hậu quả sẽ thảm khốc hơn nhiều. Biết thế nhưng chẳng ai có thể lắc đầu với thủy điện vì đó là chủ trương!