Triệu chứng lưỡi rát

Medical medicine health graphic

Thính giả Dinh Thao ở Việt Nam hỏi:

"Chào Bác sĩ,

Cho tôi hỏi hơn hai tuần nay tôi bị rát lưỡi cảm giác như ăn đồ nóng bị rộp lưỡi, nhưng lưỡi không bị loét.

Tôi đã đi bác sĩ tai mũi họng khám và nội soi. Bác sĩ nói không sao và cho đơn thuốc uống vitamin PP và vitamin C. Tôi uống một tuần mà không khỏi nhưng có đỡ hơn.”

Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:

Your browser doesn’t support HTML5

Triệu chứng lưỡi rát

Triệu chứng lưỡi rát

Tất nhiên , tôi không thể định bịnh hay tư vấn cho một bịnh nhân cá biệt được, và cũng như mọi khi, lúc quý vị thính giả đưa ra một trường hợp như bịnh này, chúng ta chỉ có thể xem đây như là một cơ hội để chúng ta học hỏi thêm về một số tin tức trong y văn hiện nay, có thể có mà cũng có thể không liên hệ trực tiếp đến trường hợp chúng ta đang bàn.

Triệu chứng lưỡi rát có nhiều nguyên nhân. Nếu bác sĩ tai mũi họng khám và nội soi mà không thấy gì đáng lo ngại, và ông đã thấy bớt nhiều, có lẽ chỉ một vấn đề ngắn hạn làm ông rát lưỡi, ví dụ viêm lưỡi.
Viêm lưỡi thường có triệu chứng kèm theo như lưỡi đỏ, láng; nguyên nhân có thể do thiếu máu, thiếu một số vitamin nhất là vitamin B, nhiễm trùng nấm, siêu vi. Vitamin PP (cũng gọi là vitamin B); thiếu vitamin PP có thể gây bịnh pellagra; thiếu vitamin PP gây ra lở da ở những vùng phơi nắng (tay, chân, mặt), lưỡi sưng đỏ, cùng với những triệu chứng thần kinh như mất ngủ, hung hăng, lú lẫn, điên loạn.

Các nút vị giác (taste buds) cứ chừng 10 ngày là bị thay đổi hết một nửa (half life of 10 days), cho nên bịnh nhân, nhất là người già, dễ bị rơi vào tình trạng dinh dưỡng kém gây ra cơ năng vị giác giảm do niêm mạc lưỡi bị viêm và teo (atrophic glossitis), dẫn đến lơ là ăn uống, dẫn đần thiếu dinh dưỡng [kể cả vitamin] nặng thêm.

Nếu bác sĩ tai mũi họng khám không thấy gì, nên nhờ một bác sĩ nội thương xem mình có vấn đề gì liên hệ đến các lãnh vực dinh dưỡng, nhiễm trùng nói trên hay không, xem tình trạng tiêu hoá (ví dụ tràn dịch bao tử -thực quản (gastro-esophageal reflux] có thể làm rát lưỡi); khám bác sĩ nha khoa để xem lại vệ sinh miệng và răng.

Nếu bịnh rát lưỡi vẫn kéo dài mà bs không tìm thấy nguyên nhân, chúng ta có thể nghĩ đến hội chứng rát miệng.

Hội Chứng Rát Miệng (Burning Mouth Syndrome, BMS), hay còn gọi là Bịnh “đau lưỡi” (glossodynia, glossa=lưỡi, odyna=đau ).
Đại đa số bịnh nhân là đàn bà ( tỷ lệ 7/1 cho đến 31/1), đa số ở người phụ nữ đã tắt kinh, và có những triệu chứng khác của thời sau khi nghỉ kinh (postmenopausal). Phụ nữ gốc Á châu cũng như người Da Đỏ dễ mắc chứng này hơn.

Triệu chứng:
1) Vị trí: đau ở 2 bên lưỡi, ít gặp hơn: ở vòm miệng, môi hoặc nướu răng hàm dưới
2) Đau mạn tính (chronic pain), hiếm khi tự nhiên khỏi.
3) Đau theo lối rát, như bị phỏng (burning pain), hay tê tê, thấy rần như kiến bò (tingling). Nhiều khi chỉ mơ hồ là khó chịu, ê đau, không đau rõ rệt.
4) Triệu chứng đi kèm: cảm thấy khô miệng, khẩu vị, vị giác có thể thay đổi (dysgeusia); vd đắng lưỡi, vị kim loại (tanh tanh, metallic taste); nhạy cảm quá đáng với những vị khác nhau; đau lưng mạn tính; ruột quá nhạy cảm dễ đau bụng đi cầu xong lại khỏi (irritable bowel syndrome, IBS); bụng sình hơi; cảm giác nuốt nghẹn (globus pharyngeus); đau bụng lúc có kinh (dysmenorrhea); cảm giác lo lắng (anxiety); ăn không ngon; trầm cảm (depression); rối loạn cá tánh (personality disorders).
5) Thời điểm:
Ba loại đau:
a) loại 1: sáng dậy không đau, đau xuất hiện, xong từ từ tăng dần, đau nhất buổi tối lúc giờ đi ngủ nên rất khó ngủ, làm mệt mỏi, lo lắng.
b) loại 2: đau lúc mới thức dậy và đau suốt ngày (thường gặp nhất)
c) không theo thứ tự nhất định
6) Những tình huống làm bịnh nặng hơn:
Thần kinh căng thẳng, mệt, nói nhiều, thức ăn cay, nhiều gia vị.
Ít đau hơn lúc: ăn uống. Nên để ý, trong bịnh đau miệng do lỡ miệng, đau răng, đau hàm, người bịnh càng đau hơn lúc ăn uống; nếu đau rát miệng mà ăn uống lại bớt đau, thì đây là một dấu chỉ đặc biệt của “hội chứng rát miệng”.
Có thể bớt đau nhờ uống thuốc hoặc thoa thuốc tê vào chỗ đau.
7) Cường độ đau: cở trên trung bình (5-8/10), tương tự như đau răng.
8) Có thể làm mất ngủ, nhưng có thể không ảnh hưởng giấc ngủ.
9) Như trường hợp vị thính giả hỏi, đa số bịnh nhân từng được nhiều bác sĩ khám và chữa nhưng không có kết quả rõ rệt.

Nguyên nhân:
Theo định nghĩa của BMS, chúng ta chưa hiểu rõ nguyên nhân chứng này, và chỉ định bịnh BMS sau khi loại bỏ những nguyên nhân có cơ sở thể chất cụ thể hơn (như loét do ung thư, đau răng, đau khớp thái dương-hàm dưới (temporomandibular joint, TMJ), viêm dây thần kinh do thiếu vitamin B, folic acid, Fe, zinc; do siêu vi [herpesvirus]); suy cơ năng tuyến giáp (hypothyroidism); bịnh tiểu đường (diabetes type 2); dị ứng với thuốc, thức ăn, kim loại trong răng; bịnh do răng giả gây khó chịu.

Những giả thuyết giải thích BMS:
-Những khảo cứu gần đây cho rằng BMS do rối loạn cơ năng các dây thần kinh sọ V, VII, IX phụ trách về vị giác.
-Người mãn kinh thiếu hormone estrogen và progesterone
-Hiện tượng tự miễn nhiễm, do cơ thể sinh ra những kháng thể chống lại chính mình ( những kháng thể chống nhân (ANA, antinuclear antibodies) hay yếu tố phong thấp (RF, rheumatoid factor) có thể hiện diện trong máu trên 50% bịnh nhân, bịnh khô miệng do nước miếng bất bình thường)
-Bịnh trầm cảm, bịnh lo lắng có thể kèm theo. Bịnh BMS có thể là một biểu hiện của bịnh thần kinh tâm thể (psychosomatic manifestation, bịnh tâm lý biểu hiện bằng triệu chứng vật thể), chứng sợ ung thư, sợ bịnh phong tình, chứng "bịnh tưởng" (hypochondriasis).
-Một số bịnh nhân có thể có thói quen lấy lưỡi chạm vào răng, hay đẩy lên vòm miệng làm gây ra những chấn thương li ti cho lưỡi.
- Bịnh Parkinson có thể làm dây thần kinh nhạy với sự đau đớn hơn.
-Liên hệ tới một giai đoạn khó khăn, bị stress trong đời, thường là 3-12 năm sau khi tắt kinh.

Chữa trị:

1) Loại bỏ các khả năng bịnh đã kể ở trên gây ra triệu chứng khô, rát, đau lưỡi miệng.

2) Nếu không có bịnh đi đôi: bác sĩ cần giải thích cho bịnh nhân yên tâm; giảm lo lắng bịnh nhân, nhất là lo ung thư (cancerophobia), lo bịnh tính dục (sexually transmitted diseases);

3) Nếu cần thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm ba vòng ( tricyclic antidepressant), thuốc chữa trị co giật (anticonvulsivant, vd gabapentin [Neurontin], dùng với mục đích giảm cơn đau do dây thần kinh quá nhay cảm gây ra.)

4) Capsaicin là một chất lấy từ ớt, có tác dụng làm giảm đau. Có những nghiên cứu cho thấy chất này có thể có ích trong chừng 1/3 các trường hợp. Tuy nhiên ở Mỹ không có thuốc chứa capsaicin để thoa trong miệng.
Tránh thuốc súc miệng có chứa alcohol, kem đánh răng có chứa sodium lauryl sulfate
tránh uống rượu, nước pH thấp (acid) như cà phê, nước cam, chanh.
Uống những ngụm nước thường xuyên cho miệng khỏi khô, mút nước đá, nhai kẹo cao su không có đường.

5) Có thể cần tâm lý trị liệu (psychotherapy), hành vi trị liệu pháp (biobehavioral techniques).

6) Nếu một nguyên nhân vật thể giải thích được chứng đau miệng (ví dụ đi khám răng và thấy răng gần đó hay khớp TMJ gần đó có thể giải thích được cơn đau ở lưỡi) thì những chứng trầm cảm lo lắng có thể được giải toả sau khi giải quyết được bịnh đau miệng/lưỡi.

Trong 2/3 trường hợp, bịnh BMS tự nhiên từ từ thuyên giảm, các cơn đau thưa thớt đi và bịnh nhân cuối cùng hết đau.

Chúc bịnh nhân may mắn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 12 tháng 6 năm 2017

Cảm ơn bác sĩ Hồ Văn Hiền. Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đã tham gia chương trình Hỏi đáp Y học này.

Quý vị có thể xem và nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com

Quý vị muốn được giải đáp các thắc mắc về những vấn đề y học thường thức, xin gọi đến số (202) 205-7890, hoặc E-mail đến địa chỉ <vietnamese@voanews.com>.