Tình yêu, một phát minh mới

Tình yêu, một phát minh mới

Lời tác giả: Khoảng năm 1989 hay 1990 gì đó, tôi có viết một loạt bài về đề tài tình yêu trong thơ Việt Nam, trong đó, tôi nhấn mạnh đến hai luận điểm chính: một, trong văn học, tình yêu là khám phá mới; hai, trong cuộc đời, tình yêu giúp chúng ta khám phá ra (a) bản thân mình; (b) người khác; và (c) thiên nhiên. Loạt bài này đăng trên tạp chí Quê Mẹ ở Paris đã lâu. Nay, tôi xin sửa lại chút ít, đăng thành bốn kỳ, như một món quà nhẹ nhàng trong những ngày Tết. Nguyễn Hưng Quốc

Lâu nay, nhiều người vẫn đinh ninh cho tình yêu là chuyện muôn thuở, do đó, tình yêu cũng là một đề tài vĩnh cửu trong văn học. Hễ có thơ có văn là phải có tình yêu, nếu không muốn nói là chính nhờ có tình yêu mà con người mới dạt dào cảm hứng để sáng tác nên những vần thơ óng ả cũng như những câu văn trau chuốt. Hơn nữa, có một số người còn cho là, về phương diện này, người xưa đa tình và đa cảm hơn chúng ta, dám sống chết vì tình yêu hơn chúng ta ngày nay. Một trong những người chủ trương như thế là Xuân Diệu, người được xem là ông hoàng của thơ tình thời 1930-45. Có lần Xuân Diệu viết:

Hơi gió thở như ngực người yêu dấu
Mây đa tình như thi sĩ đời xưa.

Đa tình như thế nào? Một lần khác, Xuân Diệu lại viết, như ngầm giải thích cho câu hỏi ấy:

Ngày xưa thi sĩ mơ công chúa
Mơ khói trầm lên quyện mỹ nhân.

Thật ra thì đó chỉ là chuyện Xuân Diệu tưởng tượng mà thôi. Qua thơ văn, tuyệt đối không có bằng chứng nào cho thấy người xưa đa tình hơn chúng ta bây giờ. Hơn nữa, đọc lại thơ Việt Nam từ xưa đến nay, chúng ta rất dễ thấy tình yêu chỉ là một đề tài mới, thật mới, trong lịch sử. Đó không phải là một đề tài muôn thuở như chúng ta dễ lầm tưởng. Ở trên thế giới, tình yêu với tư cách là một đề tài văn học, chỉ xuất hiện cách đây khoảng 7, 8 thế kỷ; ở Trung Hoa, nó xuất hiện muộn hơn một chút, cách đây khoảng 4 thế kỷ; còn ở Việt Nam thì muộn hơn nữa, chỉ khoảng 2, 3 thế kỷ mà thôi.

Chúng ta nên nhớ là văn học viết Việt Nam chỉ xuất hiện từ thế kỷ 10. Từ đó cho đến hết thế kỷ 17, tức là trong vòng khoảng bảy trăm năm, thơ văn Việt Nam chủ yếu tập trung vào các đề tài nhân sinh, lịch sử, đạo đức. Trong tuyển tập thơ văn Lý Trần, dày cả ngàn trang, không hề thấy có một bài thơ tình nào cả. Thơ của Lê Thánh Tông còn lại khoảng mấy trăm bài cũng không có một bài thơ tình nào. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn lại nhiều hơn, năm bảy trăm bài, cũng không hề có một bài thơ tình nào. Trong vòng bảy thế kỷ, thơ tình, thực sự là thơ tình, chỉ còn lại khoảng vài ba bài. Trong đó, chỉ có một bài là chắc chắn, đó là bài thơ của Nguyễn Trãi (1380-1442):

Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dù còn chăn áo lẻ
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.

Hơn 400 năm sau ngày Nguyễn Trãi qua đời, trong bài thơ “Khóc Bằng Phi” tương truyền là của vua Tự Đức, cũng xuất hiện lại cái tứ thơ nâng niu mùi hương của người mình yêu như thế. Điều đáng buồn là trong bài “Khóc Bằng Phi”, mùi hương ấy là mùi hương của một người vợ đã qua đời:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi.

Trước bài "Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng" còn có một vài bài thơ tình nữa nhưng vì xuất xứ của chúng không rõ ràng, nguồn thư tịch không chắc chắn, do đó, chúng ta cũng có thể nói bài thơ này của Nguyễn Trãi là bài thơ tình đầu tiên còn lại trong lịch sử văn học viết của Việt Nam.

Theo tôi, đó là một vinh dự lớn cho Nguyễn Trãi.

Lâu nay, chúng ta hay đề cao khía cạnh anh hùng trong con người của Nguyễn Trãi. Điều đó dĩ nhiên là đúng. Không ai có thể phủ nhận chuyện Nguyễn Trãi đã từng giúp Lê Lợi rất nhiều trong việc đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi vào năm 1427; sau đó, lại giúp cho Lê Lợi và các đời vua kế tiếp khá nhiều trong công cuộc xây dựng đất nước. Cũng không ai không biết Nguyễn Trãi được giới nho sĩ ngày xưa đánh giá là kẻ viết thư thảo hịch hay hơn hết mọi thời. Thơ văn của Nguyễn Trãi thường đầy khí phách, thơ Nôm thì cứng cỏi, ngang ngạnh; thơ chữ Hán thì hùng kính. Bài “Bình Ngô đại cáo”, tác phẩm chính của Nguyễn Trãi được mọi người khen ngợi là một áng thiên cổ hùng văn của Việt Nam, là một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam, sau bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất là bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” của Lý Thường Kiệt hồi thế kỷ 11. Quả thật, đó là những điều không ai có thể chối cãi được. Tuy nhiên, trong con người của Nguyễn Trãi còn có một khía cạnh khác, bên cạnh khía cạnh anh hùng, đó là khía cạnh tình tứ. Ông tình tứ đến độ nhìn đọt chuối non mới nhú, ông tưởng tượng đến một bức thư tình còn phong kín của ai đó gửi cho ông:

Tình thư một bức, phong còn kín
Gió nơi đâu, gượng mở xem.

Nguyễn Trãi tình tứ đến độ về già ông vẫn còn lưu luyến những mối tình thời trai trẻ:

Tiếc thiếu niên qua, lật hạn lành
Hoa hoa, nguyệt nguyệt khéo vô tình
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc
Đầu bạc xưa nay có thủa xanh.

Cả mấy thế kỷ sau, Nguyễn-Trãi-tình-tứ ấy mới có hậu duệ, trong đó, riêng trong dòng văn học bằng chữ Nôm, có một số tên tuổi nổi bật như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, v.v...

Tuy nhiên, ở đây, tôi không muốn đi vào khía cạnh lịch sử của thơ về đề tài tình yêu. Nhắc qua một vài nét như trên, chủ yếu là để đi đến hai kết luận chính đã nêu lên từ đầu: một, tình yêu không phải là một đề tài vĩnh cửu như Hồ Dzếnh có lần viết "Thơ yêu khôn dứt trong thiên hạ"; hai, thơ tình chỉ là một phát minh khá mới trong lịch sử; riêng ở Việt Nam, may lắm, chỉ được vài trăm tuổi.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.