Tình hình thế giới thuận lợi để VN thành nước công nghiệp sau 15 năm?

Tỷ phú Phạm Nhật Vượng đưa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham quan nhà máy ô tô VinFast, tháng 6/2019

Thủ tướng Việt Nam mới đây lại nhắc đến mục tiêu là Việt Nam trở thành nước “công nghiệp phát triển” vào khoảng năm 2035-2040.

Theo Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ Việt Nam, tại lễ kỷ niệm 20 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam, diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 20/7, trong diễn văn của mình, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị thị trường chứng khoán “góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại phát triển thịnh vượng trong 15-20 năm tới”.

Mục tiêu Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và nhắm đến là nước công nghiệp phát triển hiện đại vào năm 2045 được đề ra trong một nghị quyết hồi tháng 3/2018 của Bộ Chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam không là đồng minh của ai cả. Và như vậy vấn đề đặt ra là không có sự hỗ trợ tích cực của những nước phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu chủ yếu về hai mặt công nghệ và thị trường.
Giáo sư Võ Đại Lược


Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa Washington và Bắc Kinh làm nhiều công ty của Mỹ và các nước phát triển muốn rời khỏi Trung Quốc, một số nhắm đến Việt Nam, có những nhà quan sát, bình luận cho rằng điều này có thể tạo thuận lợi cho Việt Nam theo đuổi tham vọng trở thành nước công nghiệp phát triển.

Giáo sư Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, nói với VOA rằng Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng để đón các hãng Mỹ, châu Âu, Nhật Bản rời Trung Quốc đến Việt Nam.

Nhưng, theo giáo sư, không nên kỳ vọng quá cao vì Trung Quốc là thị trường cực lớn, có sức hút rất mạnh mẽ mà Việt Nam và các nước Đông Nam Á không so được, dẫn đến là giảm ý muốn di chuyển của các doanh nghiệp.

Trên bình diện rộng hơn, chuyên gia kinh tế kỳ cựu Võ Đại Lược phân tích với VOA rằng để Việt Nam đạt được mục tiêu thành nước công nghiệp phát triển, quan hệ đối ngoại là một yếu tố “cực kỳ quan trọng”, đặc biệt cần có quan hệ tốt với Hoa Kỳ và châu Âu là “hai nơi phát triển nhất”.

Ông lý giải thêm:

“Nhìn ở Đông Á, những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đều là đồng minh hoặc thân cận của phương Tây cả. Trong thế giới hiện nay, Việt Nam không là đồng minh của ai cả. Chúng tôi chưa phải đồng minh của Mỹ. Và như vậy vấn đề đặt ra là không có sự hỗ trợ tích cực của những nước phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu chủ yếu về hai mặt công nghệ và thị trường”.

Trình độ công nghệ, kỹ thuật của các hãng xưởng ở Việt Nam nhìn chung còn ở mức độ thấp (ngoại ô Hà Nội, tháng 5/2018)

Mặc dù vậy, theo cựu Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, vẫn xuất hiện điểm sáng là việc Việt Nam và Liên hiệp châu Âu EU phê chuẩn và thực thi Hiệp định thương mại tự do EVFTA.

Điều này sẽ mở rộng cửa cho Việt Nam tận dụng thị trường và công nghệ của châu Âu, giáo sư Lược nói.

Việt Nam trong những năm tới đây muốn bứt phá lên phải có một hiệp định thương mại tự do với Mỹ. Thông qua hiệp định như vậy, chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ Việt Nam về mặt công nghệ, kỹ thuật, hỗ trợ về mặt thị trường.
Giáo sư Võ Đại Lược


Tiếp đến, theo chuyên gia kinh tế này, Việt Nam cũng cần có thêm hiệp định tương tự với Mỹ. Ông đưa ra lý do:

“Việt Nam trong những năm tới đây muốn bứt phá lên phải có một hiệp định thương mại tự do với Mỹ. Thông qua hiệp định như vậy, chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ Việt Nam về mặt công nghệ, kỹ thuật, hỗ trợ về mặt thị trường để Việt Nam có thể bứt phá. Thiếu những nhân tố bên ngoài như vậy thì Việt Nam khó bứt phá”.

Trong hợp tác với các nước phát triển nhất, trọng tâm mà Việt Nam cần nhắm tới là các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), giáo sư Lược nói. Việc các trung tâm này đến nghiên cứu ở Việt Nam và thương mại hóa các công nghệ cao ở Việt Nam mới là điều quan trọng, ông nói. Các trung tâm R&D của Mỹ, Nhật, châu Âu ở Việt Nam hiện vẫn “quá ít”, ông lưu ý.

Sở dĩ phải chú trọng các đối tác là những nước tiên tiến vì số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có thể đóng vai trò đầu tàu hiện chỉ đếm được trên đầu ngón tay, giáo sư Lược nói.

Chuyên gia kinh tế kỳ cựu này đưa ra đánh giá:

“Có Vingroup, FLC… ít lắm, không có bao nhiêu, mà phần lớn các vị đấy làm kinh doanh bất động sản. Vingroup bắt đầu mới chuyển sang làm ô tô, điện thoại di động nhưng chủ yếu vẫn là lắp ráp, chưa phải là sản xuất. Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, tới 98% là nhỏ và vừa, nhỏ, cực nhỏ. Chỉ 2% tạm gọi là trung bình và lớn. Những doanh nghiệp lớn nhất đều là bất động sản cả. Thành ra khu vực tư nhân là hơi kém”.

Hoạt động sản xuất tại hãng dệt may Thành Công ở Tp.HCM, tháng 7/2019

Tiên liệu về tương lai, giáo sư Võ Đại Lược nêu ra hai kịch bản. Về khả năng thứ nhất, ông nói:

“Với tất cả các điều kiện hiện nay, Việt Nam đang ở điều kiện thuận lợi để có thể bứt phá. Nếu Việt Nam khai thác được các thuận lợi đấy, bứt phá được, trong vòng 20 năm tới, Việt Nam cũng có thể bứt phá thành một nước phát triển ở mức độ thấp, chứ không phải là cao như châu Âu hay Mỹ, nhưng bứt phá khỏi các nước đang phát triển”.

Tôi cảm nhận là trong vòng 10 đến 15 năm tới, Việt Nam giỏi lắm có thể đạt được trình độ nước đang phát triển ở hạng cao một chút chứ chưa thành nước phát triển được.
Giáo sư Võ Đại Lược


Nhưng cựu Viện trưởng Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới lưu ý rằng điểm lại lịch sử thế giới, trong vòng mấy thập kỷ gần đây, số nước từng thuộc diện đang phát triển đã bứt phá thành công, gia nhập đội ngũ nước phát triển là con số ít ỏi, đếm trên đầu ngón tay. “Việc đó rất khó”, giáo sư Lược nói.

Vì vậy, ông nêu ra khả năng thứ hai có tính thực tiễn hơn:

“Tôi cảm nhận là trong vòng 10 đến 15 năm tới, Việt Nam giỏi lắm có thể đạt được trình độ nước đang phát triển ở hạng cao một chút chứ chưa thành nước phát triển được”.

Năm 2001, Đảng CSVN từng đề ra mục tiêu “đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, nhưng sau 15 năm, Quốc hội Việt Nam khóa 13 thừa nhận vào tháng 4/2016 rằng tham vọng đó “không đạt được”.

Liên Hiệp Quốc không có định nghĩa cụ thể về “nước phát triển” hay “nước đang phát triển”, nhưng danh sách những “nền kinh tế phát triển” trong Báo cáo Tình hình và Triển vọng Kinh tế 2020 của LHQ liệt kê 31 nền kinh tế châu Âu, cùng với Mỹ, Nhật, Canada, Úc và New Zealand.

Trong số các nền kinh tế phát triển đó, Bulgaria có tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người thấp nhất, là 9.410 đô la vào năm 2019.

Mặc dù vậy, con số đó của Bulgaria vẫn cao gần gấp 4 lần mức 2.540 đô la là GNI đầu người trong cùng năm của Việt Nam, nước được LHQ xếp vào danh sách “các nền kinh tế đang phát triển”.

Theo ước tính của một số chuyên gia kinh tế mà VOA tham khảo ý kiến, nếu Việt Nam duy trì tăng trưởng hàng năm ở mức 7%, con số kể trên sẽ cải thiện nhiều.

Theo đó, đến năm 2035, GNI đầu người của Việt Nam có thể đạt 7.500 đô la, và 10.500 đô la vào năm 2040, thuộc nhóm các nền kinh tế có thu nhập trung bình cao. Hiện nay, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp.

Dù thu nhập có thể sẽ tăng lên nhưng điều đó không đảm bảo sẽ thay đổi vị thế của Việt Nam.

Trường hợp để tham khảo là Trung Quốc, nước láng giềng hiện có mức độ phát triển cao hơn nhiều so với Việt Nam. Trung Quốc có GNI đầu người năm ngoái là hơn 10.400 đô la, gấp 4 lần Việt Nam. Trung Quốc cũng có các ngành công nghiệp, chế tạo ở trình độ cao, song vẫn nằm trong danh sách “các nền kinh tế đang phát triển” của LHQ.