Bài toán cho cách mạng ở Libya cuối cùng cũng có lời giải. Mặc dù chưa bị bắt giữ, số phận của nhà độc tài một thời Moammar Gadhafi hiện nay cũng không khác mấy so với số phận của Sadam Hussein hồi năm 2003 khi chế độ do ông này cầm đầu sụp đổ. Kết cục này chắc chắn cả Gadhafi và Hussein có nằm mơ cũng không nghĩ ra. Và nói cho công bằng thì có hàng triệu người khác chắc chắn cũng không thể nghĩ ra được rằng các chế độ hà khắc mà hai ông dựng lên ở Libya và Iraq lại có thể sụp đổ trong một thời gian ngắn.
Câu chuyện ở Libya và Iraq đương nhiên không giống nhau. Trong trường hợp của Hussein, chế độ của ông ta tan rã trực tiếp do sự tấn công của liên quân do Mỹ dẫn đầu. Trường hợp của Gadhafi, chế độ của ông bị chính dân mình loại bỏ (với sự hậu thuẫn của NATO).
Dù là những sự ra đi này dưới hình thức nào, một ẩn ý quan trọng trong các trường hợp này là sự không đoán định được (unpredictability) của ngày tàn của các chế độ hà khắc.
Vào mấy tháng cuối năm 2007 tình hình Miến Điện hết sức căng thẳng. Nhiều người đã hi vọng nền chính trị của Miến Điện sẽ có một cuộc chuyển đổi hòa bình. Thế nhưng cuối cùng thì máu dân thường lại một lần nữa thấm dưới lòng đất Rangoon mà chế độ quân sự của Than Shwe vẫn vững như bàn thạch.
Quả thật câu chuyện ở Miến Điện đã làm tôi hết sức xúc động. Tôi biết đến cuộc đấu tranh của họ từ nhiều năm trước và đã rất thú vị khi đọc các bài viết của Aung San Suu Kyi. Lần này, khi hàng chục ngàn tu sĩ Phật giáo xuống đường, tôi đã có một chút hi vọng cho họ, tuy nhiên, khi nhìn vào một số bức ảnh chụp (từ trước khi có đàn áp xảy ra) tôi đã nghĩ lại. Những bức ảnh như thế này gợi tôi nhớ về một chủ đề kinh tế chính trị mà tôi đã hầu như quên bẵng đi.
Khi nhìn vào những bức hình tuần hành ở Rangoon (Yangon) bạn thấy gì? Đương nhiên là bạn sẽ thấy một cuộc tuần hành của giới tu sĩ. Nhưng hãy gạt qua một bên chuyện tu sĩ khác người thường, thì bạn sẽ thấy đây là một cuộc tuần hành của một bộ phận dân chúng Miến Điện. Nếu để ý kỹ, bạn sẽ thấy không phải ai cũng tham gia tuần hành. Có rất nhiều người đứng trên lan can các tòa nhà ven đường nhìn xuống. Nhiều người trong số này có thể không đồng ý với chế độ quân sự của Than Shwe và muốn chế độ này ra đi, tuy nhiên họ đã không tham gia.
Ý Nguyện và sự Che Dấu Ý Nguyện
Timur Kuran, một giáo sư kinh tế đang làm việc tại Đại học Nam California, xuất bản một cuốn sách lấy tựa là “Private Truths, Public Lies: The Social Consequences of Preference Falsification” - tạm dịch là “Thật Trong Nhà, Giả Ngoài Đường: Các Hậu Quả Xã Hội của việc Che Dấu Ý Nghuyện Thật”. Cuốn sách này đã tạo ra được một ảnh hưởng khá rộng lớn trong các nghiên cứu chính trị, xã hội học, cũng như lịch sử. Các nghiên cứu tiếp theo như của John Ginkel và Alastair Smith cùng nhiều công trình khác đã phát triển thêm lý thuyết này.
Quan sát chính của Timur Kuran là trong nhiều tương tác xã hội, con người thường có khuynh hướng che dấu ý nguyện thực sự của mình. Thí dụ bạn được mời tới ăn cỗ tại một gia đình khác, khi chủ nhà mặt tươi như hoa hỏi bạn có ngon miệng không thì mặc dầu bạn không thích đồ ăn họ nấu lắm những cũng thường phải hớn hở trả lời lại “ngon lắm, rất tuyệt, rất lạ miệng…” – tóm lại bạn phịa ra rằng bạn thích trong khi có thể bạn thực sự không thích. Một thí dụ khác: khi bạn dự họp cơ quan đoàn thể hay công ty, nhiều khi bạn không thích các phát biểu của lãnh đạo công ty, quan chức hay các nhân vật tham gia cuộc họp nhưng bạn không đứng lên phản đối, thậm chí nhiều khi còn vỗ tay nồng nhiệt ủng hộ các phát biểu đó.
Trong những tình huống như vậy, bạn đã không thể hiện ra ngoài cái ý nguyện thực sự của mình. Timur Kuran gọi đó là “preference falsification” – tôi dịch là “che dấu ý nguyện thật”. Những tương tác xã hội - mà trong đó bạn thường che dấu ý nguyện của mình - nhiều vô kể. Từ chuyện khen người yêu đẹp, khen vợ nấu cơm ngon, hay khen đứa bé mới sinh nhà hàng xóm giống bố như đúc… tới những chuyện xa xôi như vỗ tay trong hội nghị hoặc im lặng trước các bất công trong xã hội.
Khuynh hướng tự nhiên là nếu bạn nghĩ rằng chi phí để sống thật/nói thật quá cao thì bạn sẽ che dấu ý nguyện thật của mình. Thí dụ khi đi ăn cỗ nhà người khác mà bạn chê cỗ không ngon thì bạn có thể nghĩ trong đầu “nếu nói thật rằng mình thấy cỗ không ngon thì ngượng chết đi được” hoặc trong khi họp hội nghị “mình mà nói trắng ra ông xếp thù mình rồi đuổi việc thì khổ”. Cái chi phí mà bạn nghĩ ra trong đầu phụ thuộc cả vào đặc điểm khách quan của tình huống lẫn hệ giá trị của bạn. Nếu bạn là người bộc trực, hoặc nếu bạn là người không chịu được bất bình, thì khả năng là bạn sẽ dám nói thẳng nói thật hơn.
Việc che dấu ý nguyện thật có những hậu quả khôn lường về mặt xã hội. Ít nhất cũng có 3 hậu quả to lớn sau:
- Nó làm giảm hiệu quả của các tương tác xã hội và ngăn cản việc truyền đạt các thông tin trung thực. Việc này quá rõ nên tôi không bàn thêm.
- Nó làm cho các cấu trúc đáng ghét (từ dùng của Timur Kuran) có cơ hội tồn tại lâu dài. Thí dụ bạn thực sự không thích chuyện cấm báo chí tư nhân, nhưng bạn luôn che dấu ý nguyện thật đó và kết quả là gì? Giấc mơ báo chí tư nhân mãi vẫn chỉ là giấc mơ. Timur Kuran dẫn ra ví dụ về sự tồn tại dài lâu của hệ thống đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, cũng như sự tồn tại của cái gọi là “Affirmative Action” – một điều luật quy định về phân biệt đối xử với người thiểu số ở Mỹ như là các bằng chứng về sự tồn tại lâu dài của các cấu trúc đáng ghét với tư cách là hệ quả của việc che dấu ý nguyện thật.
- Nó làm cho các cấu trúc đáng ghét có thể bị đổ vỡ vào lúc mà không ai có thể đoán được. Thí dụ như sự sụp đổ cái rụp của hệ thống Liên Xô – Đông Âu hồi cuối thập niên 80. Cái ý này là một phát hiện khá sâu sắc của Timur Kuran mà tôi sẽ khai triển ra dưới dạng một mô hình ở phần tiếp theo. (Còn tiếp)
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.