Phong cách Võ Phiến

Nhà văn Võ Phiến.

Ít nhất từ 1986, từ khi vượt biên và định cư tại Pháp, sau đó, qua Úc, tôi đọc Võ Phiến khá thường xuyên. Khi ông không in sách mới thì tôi đọc lại sách cũ. Cơ hồ nghiện. Lâu, không đọc ông, có cảm giác gần như nhớ nhung cái gì.

Cái gì đó là gì? Nhiều lần tôi tự hỏi tôi. Vẫn không sao trả lời được. Chỉ thấy nỗi nhớ nhung ấy dường như tương tự nỗi nhớ nhung đồng quê, sông núi: sống ở thành phố lâu, nhìn mãi những toà nhà cao ngất, những con đường thênh thang và thẳng tắp, nhìn mãi những cửa kính lấp lánh, những ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy, những bảng hiệu màu sắc loè loẹt, chúng ta cảm thấy ngột ngạt, đâm ra thèm thuồng một cái gì mênh mông, hoang dã: một cánh đồng, một ngọn đồi, một con suối, một rừng cây. Đọc Võ Phiến, với tôi, không chừng cũng thế: trên trang sách của ông, ngôn ngữ cứ như thiên nhiên, rộng rãi, linh động, mát mẻ và tươi roi rói, ở đó, ngỡ thấy được các con chữ đang nhảy múa, đang lấp lánh, đang thở phập phồng. Tôi đâm mê giọng văn ông, ngôn ngữ ông trước khi chú ý đến những gì ông nói.

Điều tôi thú nhất khi đọc Võ Phiến là có cảm tưởng không phải đang đọc sách mà là đang nghe ông trò chuyện. Đó là một người trò chuyện cực hay, vừa sâu sắc lại vừa duyên dáng, đặc biệt là linh động: lúc thì lớn tiếng, lúc thì hạ giọng, lúc thì nghiêm trang, lúc thì cười cợt, lúc thì quyết liệt, lúc thì khoan hoà. Lúc thế này lúc thế kia song bao giờ cũng nhanh nhẹn, thông minh: trong một bài viết, ông chuyển từ ý này sang ý khác, từ giọng này sang giọng khác, cứ thoăn thoắt, thật tài tình. Ông có lượng hiểu biết thật rộng rãi để tha hồ tung hoành. Ông cũng có thật nhiều những ý nghĩ độc đáo, những phát hiện tinh tế, bất ngờ để thỉnh thoảng làm cho độc giả phải giật thót cả người. Ông có vốn từ vựng cực giàu, phần lớn là những từ còn hôi hổi sự sống, như mới mang thẳng từ đường phố, từ chợ búa vào. Vốn từ ấy lại được ông sử dụng một cách thần tình, trong những cấu trúc câu uyển chuyển, nhẹ nhàng và rất linh hoạt. Đặc biệt hơn cả là khẩu khí của ông: sau mỗi câu văn dường như thấp thoáng một nụ cười. Ví dụ trong Văn học Miền Nam, tổng quan, có đoạn ông viết:

“...đứng về phương diện phái tính, văn học Miền Nam thời kỳ 1954-75 càng ngày càng nghiêng về nữ phái. Thời gian ủng hộ hồng quần. Thoạt đầu trên văn đàn nghe tiếng ồm ồm, cuối cùng nghe ra eo éo.” (tr. 47).

Cách viết như thế khiến hơi văn của Võ Phiến trở thành dí dỏm và quan trọng nhất, tạo nên cảm giác thân mật, gần gũi giữa người viết và người đọc.

Có thể nói đặc điểm nổi bật nhất trong văn phong Võ Phiến là ưu thế của lời nói.

Đó cũng là đặc điểm chung, rất dễ thấy ở các nhà văn gốc miền Nam như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Vương Hồng Sển, Hồ Trường An, Kiệt Tấn, v.v... Có điều khác với các nhà văn miền Nam thường xuề xoà đến dễ dãi và tuệch toạc đến độ lắm lời, câu văn của Võ Phiến thường vừa thân vừa thâm, vừa vui vừa sắc, vừa có vẻ như bộc trực lại vừa như lấp lửng, gợi những hàm ý xa xôi. Nó có vẻ như lời nói nhưng nó lại được cấu trúc một cách chặt chẽ, không mắc cái tật rườm rà thường thấy ở lời nói. Nó là lời nói đầy tính nghệ thuật. Ở phương diện này, có thể nói, Võ Phiến vừa có công văn chương hoá khẩu ngữ, lại vừa có công văn xuôi hoá câu văn xuôi Việt Nam vốn, cho đến nay, ở rất đông người, vẫn còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của thứ mỹ học biền ngẫu ngày xưa: thích chút đăng đối, thích những “nhãn tự”, những “thần cú” và đặc biệt thích nhạc điệu trầm bổng, du dương, có khi hơi hơi rổn rảng.

Võ Phiến không những đem khẩu ngữ vào văn học, điều đã có nhiều người làm dù trình độ nghệ thuật có thể không bằng ông. Điều đáng để ý hơn ở Võ Phiến là đôi khi ông biến văn viết thành văn nói. Vẫn là văn viết, nhưng cái giọng lại là giọng của một người đang nói, lâu lâu la lên: “Ối!”, “Ối dào!”, “Ấy!”, “Gớm!”, “Kỳ cục!”, v.v... Chưa hết. Từ khoảng giữa thập niên 1960, có lẽ, nếu tôi không lầm, bắt đầu từ bài “Lối yêu hôm nay” trở đi, Võ Phiến hay đem vài câu đối thoại để lẩn vào giữa những đoạn phân tích, lý giải. Bài văn thường có nhiều giọng, nhiều bè. Tính chất nghiêm trang của cuộc thảo luận nhạt nhoà hẳn đi.

Dẫu sao, những đoạn đối thoại như vậy trong các tác phẩm biên khảo của Võ Phiến trước 1975 cũng không nhiều. Trong các tập Tiểu luận, Tạp luậnTạp bút trong Võ Phiến Toàn Tập do nhà Văn Nghệ ấn hành, loại trừ các bài phỏng vấn cũng như các bài viết sau 1975, mỗi tập - 3, 4 trăm trang - chỉ có khoảng bốn hay năm đoạn đối thoại, mỗi đoạn thường chỉ có vài câu, hoạ hoằn lắm mới kéo dài vài trang. Từ năm 1990, bắt đầu với bài “Đối thoại về bom nguyên tử”, thừa thắng xông lên, Võ Phiến đối thoại ào ào: đối thoại về thịt cầy, về thơ dịch, về dịch thơ, về tả cảnh, về kiện cáo, và gần đây, đối thoại “bâng quơ về viết chơi”. Trừ bài sau cùng, các bài khác đều được Võ Phiến tập trung in trong một quyển sách mỏng mang cái tựa khá tiêu biểu: Đối thoại. Điều này khiến cho Đặng Tiến, người theo dõi sáng tác của Võ Phiến đều dặn, kỹ lưỡng, nhạy bén và chí tình, cũng đâm ngạc nhiên: “Cái gì vậy cà?” (1) Ngạc nhiên thì cứ ngạc nhiên, song theo tôi, có điều không thể phủ nhận: càng già, Võ Phiến càng “nói” nhiều; trước, thuở bắt đầu cầm bút, ông chỉ viết, sau, ông vừa viết vừa nói, cuối cùng, gần đây, dường như ông chỉ nói.

Hơn nữa, ngoài những trường hợp “nói” công khai, đàng hoàng trong các bài viết sử dụng rặt một thể văn đối thoại, với chữ “đối thoại” sờ sờ trong cái tựa hoặc những dấu gạch ngang ở đầu câu, Võ Phiến còn nói lén, nói chùng, nói thầm trong cả những bài viết không hề có dấu vết gì của thể văn đối thoại cả, ở những bài nghị luận chay. Trong Văn học Miền Nam, tổng quan, có đoạn ông viết:

“Trong vòng hai mươi năm người độc giả Miền Nam không phải chỉ lăm le đổi giống, họ còn bị trụt tuổi nữa. Trước, họ đứng tuổi, về sau họ trẻ dần trẻ dần, cuối cùng họ sắp thành trẻ nít.

Thật vậy, giai đoạn trước là của những Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Bình Nguyên Lộc, Mặc Đỗ v.v... Không một ai trong số ấy có hạng tri kỷ vị thành niên cả. Không có thiếu niên nào khoái đọc Thần tháp rùa, Mưa đêm cuối năm, Bốn mươi... Sau đó là giai đoạn của Nhã Ca Bóng tối thời con gái, của Nguyễn Thị Hoàng, của Hoàng Ngọc Tuấn Hình như là tình yêu v.v... tức của nam nữ thanh niên thuộc tuổi đôi mươi. Sau nữa, đến giai đoạn của Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, của Nhã Ca Trăng mười sáu, của Hoàng Ngọc Tuấn Thư về đường Sơn Cúc..., là giai đoạn của tuổi sợ ma, tuổi biết buồn, tuổi thích ô mai, của “tuổi ngọc”, tuổi ngu ngơ v.v... Gớm, mới hồi nào người lớn làm văn chương để thưởng thức với nhau nói toàn chuyện cao xa, chẳng thèm biết đến các oắt tì kia muốn gì; bây giờ bao nhiêu danh sĩ xúm ùa nhau tán tụng o bế các cô các cậu kỹ quá. Cả văn cả nhạc cùng nhau gây thành một cao trào thiếu nhi: lão nhạc sĩ Phạm Duy dạo ấy cũng xoắn xít hơi nhiều xung quanh “tuổi mười ba mười bốn”, không sao?” (tr. 85).

Đọc, chúng ta có cảm tưởng Võ Phiến không chịu ngồi yên; ông nhảy xổ lên trên trang sách, ông phân tích, ông bình luận rồi ông ngạc nhiên, châm biếm, trầm trồ, khen chê rối rít. Ông không chỉ dùng kiểu câu tường thuật mà còn dùng các kiểu câu khác: cảm thán, nghi vấn. Ông gọi các độc giả trẻ là “thiếu niên” rồi “trẻ nít” rồi “oắt tì” rồi “các cô các cậu”. Để tả hiện tượng văn nghệ sĩ chiều theo thị hiếu của “các cô các cậu” ấy, ông không chỉ dùng chữ “tán tụng” mà còn dùng chữ “o bế”, “xoắn xít” vốn là những từ chứa nhiều hình tượng, đậm sắc thái biểu cảm và gần với khẩu ngữ hơn. Thành ra, đọc ông cứ ngỡ như nghe ông nói. Các loại khẩu ngữ ấy làm cho giọng văn Võ Phiến, trong phần lớn các trường hợp, thành ra dí dỏm, hơn nữa, càng ngày càng dí dỏm.

Nói đến cái vui, cái dí dỏm trong văn Võ Phiến, tôi biết, chả có gì mới mẻ. Tôi chỉ nhấn mạnh đến nhận xét: “càng ngày càng...”. Nghĩa là, theo tôi, chất “nói”, chất đối thoại và từ đó, cái vui, cái dí dỏm trong giọng văn Võ Phiến không hẳn là cái gì “bẩm sinh”, “cố hữu”. Phần nào đó là những điều ông thụ đắc dường như một cách rất tự giác trong quá trình rèn luyện ngòi bút. Không kể tư tưởng và kỹ thuật, chỉ xét riêng ở phương diện ngôn ngữ, công việc rèn luyện ấy, theo tôi, có thể tóm gọn thành hai điểm: Nam Bộ hoá và khẩu ngữ hoá.

Chúng ta biết Võ Phiến sinh ra và lớn lên ở miền Trung, trưởng thành trong bầu khí quyển văn học của miền Bắc với những Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Nhất Linh và cả nhóm Tự Lực văn đoàn nói chung. Ông chỉ vào Sài Gòn khi đã ngoài ba mươi tuổi. Có điều, khác với hầu hết các nhà văn miền Trung hay miền Bắc khác đồng thời, khi vào Sài Gòn, Võ Phiến chú ý ngay đến cá tính của người miền Nam và văn phong của các tác giả trong Nam. Bài “Cá tính văn học miền Nam” của ông đăng trên Bách Khoa năm 1959 - năm ông thuyên chuyển từ Qui Nhơn vào Sài Gòn - là một trong vài bài viết sớm nhất và đến nay, vẫn là bài viết sắc bén nhất về đề tài này. Ông ý thức rất rõ: “Nghĩ về cá tính miền Nam chẳng qua chỉ là băn khoăn về một phương diện trong vấn đề định hướng văn nghệ lúc này”. Nghĩ đến chuyện định hướng cho cả nền văn nghệ miền Nam lẽ nào Võ Phiến lại không nghĩ đến chuyện định hướng cho ngòi bút của mình?

Ở khía cạnh ngôn ngữ, đặc điểm nổi bật nhất của văn phong miền Nam chính là việc khai thác đến tận cùng khả năng của khẩu ngữ. Tuy nhiên, tôi tin là Võ Phiến nhận thức tầm quan trọng của khẩu ngữ có phần muộn hơn, có lẽ vào giữa thập niên 1960, nhờ loại truyện đăng từng kỳ trên các nhật báo mà chúng ta quen gọi là phơi-dơ-tông. Theo Võ Phiến, sức hấp dẫn chính của các truyện phơi-dơ-tông là ở đàm thoại. Trong quyển Chúng ta, qua cách viết, ông phân tích sắc sảo đặc điểm của đàm thoại trong tiểu thuyết trước và sau 1954, tuy nhiên, ở đây, liên quan đến vấn đề chúng ta đang bàn, tôi chú ý nhất đến luận điểm chính của Võ Phiến về chức năng của đàm thoại trong tác phẩm văn học, chủ yếu là tiểu thuyết: “Đọc đoạn truyện có đàm thoại, độc giả thoát được cái cảm tưởng nặng nề phải đối diện mãi mãi với một tác giả nói luôn mồm”. Có lẽ nghĩ như thế, tin như thế, ông bắt đầu chêm vào các bài văn nghị luận một số đoạn đối thoại ngăn ngắn chăng? Có thể lắm.

Ở đây lại nảy ra vấn đề là: tại sao nghĩ như thế, tin như thế, mà trước 1975, ở Miền Nam, Võ Phiến lại không hề có ý muốn tận dụng yếu tố đàm thoại trong tiểu thuyết và cũng không hề đi quá vài câu đối thoại ngăn ngắn lạc loài giữa các bài văn nghị luận, tuỳ bút? Tại sao sau 1975, khẩu ngữ không còn rón rén như trước mà nhất tề đồng khởi trên các trang viết của Võ Phiến? Tại sao những bài đối thoại về bom nguyên tử, về thịt cầy v.v... chỉ xuất hiện từ 1990? Tại sao gần đây Võ Phiến lại “nói” nhiều?

Tôi ngờ lý do chính là vì Võ Phiến... sợ.

Trước hết là sợ cái cũ, cái sáo. Trong một lá thư gửi tôi ngày 5.9.1995, sau khi nhắc lại sự tích một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, cứ mỗi lần bị thương lại nằm sấp xuống đất một hồi là khoẻ lại vì đất là mẹ, đất truyền cho sức sống và sức mạnh, Võ Phiến viết:

“Văn chương là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn chương có thời bị bọn phù thuỷ văn chương bám vào hút hết sinh khí, trở nên ẻo lả, xanh mướt, èo uột, vô hồn. Những thời kỳ như thế, văn chương cần nằm sấp xuống ôm lấy đất. Thoại ngữ, tiếng nói hằng ngày, của cuộc sống, của quần chúng; nó là chất tươi, nó mang sinh khí. Những nhà cách mạng văn hoá trong cuộc vận động Ngũ Tứ bên Tàu cũng từng bắt ngôn ngữ nằm sấp hít đất một hồi để hồi sinh. Bạch thoại thay thế văn ngôn rõ ràng là giải pháp hay.”

Võ Phiến kể tiếp, riêng trong trường hợp của ông, nhìn thấy những sáo ngữ có lúc tràn lan khắp nơi, ông nổi doá xổ... nôm.

“Nổi doá như vậy chắc chắn là hình thức nổi doá hoà nhã nhất, không mảy may bạo động. Mình chỉ mỗi ngày mỗi xuề xoà dễ dãi, ăn nói huỵch toẹt, bất cứ chuyện triết, chuyện văn, chuyện thơ gì, cứ huếch hoác, vừa nói vừa cười khơi khơi, bằng cái ngôn ngữ của người ngoài đường phố. Rốt cuộc sau bốn chục năm cầm bút, mình trở lại viết cái tiếng của người chỉ có mồm mà không từng có bút bao giờ. Viết được vậy “đã” lắm.”

Sau nữa là vì sợ cô đơn. Ở Võ Phiến, nhu cầu trao đổi, nhu cầu giao cảm hình như khá lớn. Cuộc đời cầm bút của ông cứ càng lúc càng nghiêng dần về khía cạnh giãi bày, tâm sự. Khi mới bước vào làng văn, ông thường viết truyện, hoặc truyện ngắn hoặc truyện dài, sau đó, ông đi hẳn vào thể tuỳ bút. Khác với truyện, ở tuỳ bút, ông có thể trực tiếp bộc bạch những gì ông cảm, ông nghĩ, không cần phải qua trung gian của các nhân vật - những kẻ dù là giả vẫn luôn luôn đòi hỏi tác giả, người sáng tạo ra chúng, phải tôn trọng quyền sống của chúng, quyền có tính cách riêng và số phận riêng của chúng, nói tóm: cái quyền làm nhân vật. Sau năm 1975, vẫn viết tuỳ bút, song ông chọn hình thức thư từ, hết Thư gửi bạn (1976) đến Lại thư gửi bạn (1979). Để làm gì? Để sử dụng ngôn ngữ trực tiếp được dễ dàng, thoải mái hơn. Từ Thư gửi bạn, Lại thư gửi bạn đến Đối thoại là một bước rất gần. Chiều hướng của sự thay đổi ở đây là: nhu cầu nói, nhu cầu trực tiếp phát ngôn càng ngày càng mạnh.

***

Chú thích:

1. Đặng Tiến (1991), “Võ Phiến đối thoại về thịt cầy “, Thông Luận số 35 (2.91), tr. 17-9; sau in lại trong Đối thoại của Võ Phiến, tr. 155-68.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.