Vào cuối năm 2007, Trung Quốc thành lập một đơn vị hành chính là huyện Tam Sa để quản lý Trường Sa. Vụ việc này đã dấy lên một làn sóng phản đối mạnh mẽ ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, tôi đã viết một nghiên cứu dài dưới tựa đề “Xung đột Trường Sa và trạng thái hòa bình mong manh trên biển” (nghiên cứu không phổ biến). Vì các nội dung này về cơ bản vẫn có tính thời sự, xin giới thiệu lại với các bạn đọc một số phần quan trọng nhất của tài liệu này. Đó là:
- Mối đe dọa mang tên Trung Quốc
- Được và mất của Trung Quốc khi chiếm Trường Sa của Việt Nam
- Bảo vệ chủ quyền bằng Tự Vệ Chủ Động
(Một số nội dung trong các phần giới thiệu trong lần này đã được cập nhật so với bản năm 2007)
Mối đe dọa mang tên Trung Quốc
Năm 1994, Gallagher trong một nghiên cứu mang tên Mối Đe Dọa Ảo của Trung Quốc ở Biển Đông đăng trên tạp chí International Security [1] đã phân tích khả năng quân sự trên mặt biển của của nước này cùng các hạn chế về chính trị và quân sự của họ trong việc cưỡng đoạt Trường Sa bằng vũ lực. Dựa trên số liệu thu thập được tới thời điểm đó, ông cho rằng mặc dù về số lượng vũ khí - khí tài áp đảo các nước trong khu vực, khả năng quân sự của Trung Quốc không đủ mạnh để lấn át các loại vũ khí hiện đại được phương Tây bán cho các đồng minh ở ASEAN. Điều này khiến cho việc tấn công và cố thủ ở các đảo Trường Sa là một nhiệm vụ rất khó khăn.
Tuy nhiên, kết luận của Gallagher có lẽ không còn chính xác nữa vì trong hơn 10 năm qua, Trung Quốc đã không ngừng đầu tư cho việc mua vũ khí - khí tài quân sự của các nước thuộc Liên Xô cũ, đồng thời tự sản xuất được nhiều loại vũ khí hiện đại. Các số liệu cập nhật nhất về tương quan lực lượng quân sự của ASEAN so với Trung Quốc dẫn trong báo cáo Sức Mạnh Quân Sự Truyền Thống của Châu Á, 2006 của CSIS [2] được trình bày trong các bảng dữ liệu đính kèm trong phần phụ lục.
Cán cân quân sự ở Biển Đông có lẽ đã nghiêng nhiều hơn về phía Trung Quốc so với hồi 1994. Nhưng như thế không có nghĩa Trung Quốc sẽ dễ dàng sử dụng các chiến lược khiêu khích hoặc thôn tính. Có 3 lý do khiến cho các chiến lược này vẫn khó khăn:
Thứ nhất, các khối lợi ích trong nước ưu tiên mục tiêu cải cách và phát triển không ủng hộ các quyết định khiêu khích cực đoan và chiến tranh. Wu và Bueno de Mesquita trong một nghiên cứu định lượng đáng chú ý năm 1994 [3] cho thấy các mâu thuẫn lợi ích ở Trung Quốc đã dẫn tới một tình trạng độc đáo về khả năng tiến hành chiến tranh ở Biển Đông. Trong nghiên cứu của mình, hai ông đã khảo sát các khối lợi ích có ảnh hưởng nhất trong hệ thống quyền lực của Trung Quốc. Tuy nhiên, hai ông đã nhận định rằng về mặt quyền lực chính trị thực tế, mức độ sẵn sàng khiêu chiến của Trung Quốc ở Biển Đông khá cao.
Nhưng các nhóm bảo thủ (như quân đội và các nhóm bảo thủ trong Đảng) lại thường không sẵn sàng sử dụng quyền lực của họ trong khi các nhóm đổi mới lại rất năng động trong việc này. Kết quả là nếu dựa trên quyền lực chính trị được sử dụng, thì khả năng chủ động khiêu chiến của Trung Quốc là thấp vì những nhóm cấp tiến không muốn bất ổn định và luôn sẵn sàng lên tiếng nhằm bảo vệ ổn định. Nói nôm na là nếu các khối lợi ích của Trung Quốc đều lên tiếng như nhau thì kết quả sẽ là nền chính trị Trung Quốc là một nền chính trị hiếu chiến. Tuy nhiên trên thực tế thì các nhóm đổi mới lại thường lên tiếng nhiều hơn và vì vậy đã giữ cho nền chính trị Trung Quốc ở tư thế một chính thể tương đối ôn hòa.
Có vẻ như kết luận này của Wu và Bueno de Mesquita vào năm 1994 vẫn còn nguyên giá trị vì các khối lợi ích của Trung Quốc không có chuyển dịch nhiều trong thời gian qua, hoặc nếu có thì là sự mạnh lên của các nhóm ủng hộ tăng trưởng kinh tế chứ không phải các nhóm chủ trương cứng rắn (hardliners).
Một điểm khác ràng buộc khả năng đơn phương khiêu chiến của Trung Quốc là các nước tranh chấp trong khối ASEAN đã trở nên cứng rắn hơn. Thí dụ trường hợp Philippines năm 1995 chỉ biết đứng nhìn hải quân Trung Quốc chiếm bãi Mischief thì vài năm sau họ đã sẵn sàng bắn trả c và không ngần ngại đánh chìm các tàu đánh cá của Trung Quốc trong vùng biển mà họ khẳng định chủ quyền, thậm chí đưa cả máy bay chiến đấu ra xua đuổi tàu Trung Quốc.
Một điều đặc biệt đối với Philippines là họ có hiệp định an ninh tay đôi với Mỹ, theo đó nếu an ninh quốc gia của Philippines bị xâm hại thì Mỹ sẽ bảo vệ. Việc Philippines cần làm, và họ đã làm, là chứng tỏ cho Trung Quốc thấy việc khiêu chiến trên Biển Đông sẽ dễ dàng leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang toàn lực với Philippines và như thế Mỹ sẽ phải ra tay [4]. Có lẽ chính phản ứng mạnh mẽ từ các nước tranh chấp là sức ép lớn nhất buộc Trung Quốc phải xem xét lại các thiệt hại do một chiến lược khiêu khích gây ra và khiến cho họ nghiêng nhiều hơn theo hướng đàm phán - mua chuộc.
Cuối cùng, tác động của các bên thứ 3 có ảnh hưởng cực lớn tới việc thực hiện thành công một chiến lược quân sự ở Biển Đông. Trung Quốc đã rất khôn khéo trong việc lợi dụng các điều kiện quốc tế để thực hiện các chiến lược thích hợp. Điển hình nhất là việc họ chiếm Hoàng Sa vào năm 1974. Khi đó Mỹ đã bỏ rơi Miền nam Việt Nam và các quan tâm của thế giới nói chung còn đang đổ dồn về cuộc chiến trên đất liền giữa Nam và Bắc Việt Nam.
Tương tự như vậy, họ đã chiếm một số đảo ở Trường Sa từ tay Việt Nam năm 1988 khi mà Liên Xô và khối Đông Âu đang tan rã và là tâm điểm thu hút sự chú ý của thế giới. Trung Quốc đã không chiếm Trường Sa vào năm 1979 trong khi họ thực hiện cuộc xâm lược trên đất liền. Lý do là nếu thực hiện cuộc chiến ở Trường Sa, họ sẽ thu hút hải đội cực mạnh của Liên Xô tới khu vực và nếu phải giao chiến với hải quân Liên Xô thì chắc chắn họ sẽ thua, thậm chí có thể sẽ mất luôn cả Hoàng Sa.
Trong điều kiện như hiện nay, xu thế chung của quốc tế là duy trì hòa bình để phát triển (mặc dù vẫn có các cuộc xung đột quân sự cục bộ). Vì thế thiệt hại về ngoại giao, kinh tế và lòng tin quốc tế sẽ lớn hơn rất nhiều so với vài thập kỷ trước. Điều này tạo ra một cản trở lớn cho việc thực hiện các chiến lược quân sự có mức độ khiêu khích cao trên Biển Đông.
Với các lý do trên, kịch bản xảy ra một cuộc chiến tranh trên Biển Đông là khó có thể xảy ra trong ngắn và trung hạn, nhất là giữa Trung Quốc và Philippines và giữa các nước ASEAN có tranh chấp. Riêng đối với Việt Nam, do không có lợi điểm về hợp tác quốc phòng với nước lớn như Philippines, cũng không có năng lực quân sự đủ mạnh để ít ra cũng làm cho
cuộc xâm lược trên biển không kết thúc quá chóng vánh, Việt Nam phải đi theo một con đường khác nếu muốn bảo đảm rằng Trung Quốc không dùng vũ lực cưỡng chiếm Trường Sa.
Xem thêm:
[1] Gallagher M.G., 1994: “China's Illusory Threat to the South China Sea,” International Security, Vol. 19, No. 1., pp. 169-194.
[2] Cordesman A.H and Kleiber M., 2006: “The Asian Conventional Military Balance in 2006,” Special Report, Center for Strategic and International Studies (CSIS).
[3] Wu S.S.G. and Bueno de Mesquita B., 1994: “Assessing the Dispute in the South China Sea: A Model of China's Security Decision Making,” International Studies Quarterly, Vol. 38, No. 3., pp. 379-403.
[4] Austin G., 2003: “Unwanted Entanglement: The Philippines’ Spratly Policy as a Case Study in Conflict Enhancement?” Security Dialogue, Vol. 34, p.p 41-54.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.