Thính giả tên Nguyễn Văn Sết ở Việt Nam hỏi:
“Chào Bác Sĩ!
Con ở Việt Nam tên là Nguyễn Văn Sết sinh 1969 có vợ bị bệnh Bứu ác tính ở Vú di căn hạch qua nách. hiện đang vô hóa chất để cho gom lại rồi mới phẩu thuật. vậy xin hỏi Bác Sĩ vậy vợ con có hết không, và sống được bao lâu.”
Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:
Ung thư vú
Ung thư vú là ung thư thường gặp nhất của phụ nữ Mỹ. Trên 250.000 cas mới xảy ra mỗi năm (incidence), đó là chưa kể trên 50.000 ca ung thư in situ, có nghĩa là giới hạn tại chỗ, không lan ra ngoài. Đàn ông cũng có thể bị ung thư vú, nhưng một ngàn lần ít hơn. Ung thư vú ở Mỹ đang giảm từ hơn mười năm nay do người ta ngưng dùng hormon estrogen để thay thế cho hormon tự nhiên của phụ nữ sau khi họ qua thời kỳ bế kinh (hormone replacement therapy).
So với phụ nữ các nước tây phương như Mỹ và Úc, tỷ lệ ung thư vú của phụ nữ Việt Nam thấp hơn nhiều (23/100.000 VN so với 120/100.000 của tây phương). Tuy nhiên trong hai thập kỷ gần đây, tỷ số của Việt Nam gia tăng gấp đôi, trong lúc tỷ số này giảm tại các nước phương tây, và ung thư vú có chiều hướng gia tăng tại các nước đang phát triển và sẽ trở thành nguyên nhân giết người hàng đầu trên khắp thê giới.(1)
Một ngã quan trọng để các tế bào ung thư ở vú đi lan ra chỗ khác là ngã các mạch bạch huyết (hay lâm ba ; lymphatic channels) nối liền vú với những vùng khác lân cận, nhất là ở nách.
Nách là nơi nơi đến quan trọng của bạch huyết thoát ra từ vú, cho nên các tế bào ung thư sẽ bị chặn lại tại các hạch ở nách. Nếu tế bào ung thư hiện diện trong hạch ở nách, có nghĩa là tuyến phòng thủ đầu tiên đã bị phá vỡ.
Hạch bạch huyết (lymph nodes) là những bộ phận nhỏ, chừng 0,5cm cho đến 2 cm trên đường đi các kênh dịch bạch huyết. Bạch huyết là một loại dịch trong, tương tự như máu nhưng không có tế bào hồng cầu (màu đỏ) nhưng lại có nhiều tế bào bạch cầu. Các hạch bạch huyết chứa đầy tế bào lâm ba (lymphocytes) là những bạch cầu chuyên về công việc phòng thủ, chủ yếu tiêu diệt những vật lạ, vi khuẩn, tế bào ung thư do dịch bạch huyết mang về từ các nơi. Hạch có một cái vỏ (capsule) bao bọc, hình hạt đậu, ở lưng hạt đậu nhiều ống đem bạch huyết vào trung tâm (afferent lymph vessels) , và bạch huyết đã được lọc thoát ra ở những mạch đi từ vùng lõm của hạt đậu (efferent lymph vessels). Sau khi được lọc ở các hạch, bạch huyết được quy tụ về chung với máu [đỏ] qua các mạch máu.
Trước hoặc trong lúc phẫu thuật để cắt bỏ u bướu vú, bác sĩ sẽ lấy ra một hoặc một số hạch bạch huyết dưới nách để kiểm tra dưới kính hiển vi xem các hạch này có chứa tế bào ung thư hay không. Sự có mặt của các tế bào ung thư trong các hạch chứng tỏ là hệ bạch huyết đã bị các tế bào ung thư xâm lấn vào. Để giảm tầm mức phẫu thuật trên các hạch ở mức tối thiểu cần thiết, bác sĩ có thể tìm cách xác định hạch bạch huyết nào là nơi đến đầu tiên của các tế bào ung thư xuất phát từ vú, gọi là hạch "gác cổng" (sentinel lymph node). Người ta bơm vào chung quanh u ung thư một chất màu hoặc chất phóng xạ. “Hạch gác cổng” là hạch đầu tiên có nhuộm màu (lúc giải phẫu), hoặc là hạch phát ra phóng xạ (dưới da). Cắt hạch 'gác cổng' mà thôi, thử hạch này có thể biết ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết hay chưa, giúp xếp hạng ung thư (staging) và tính toán trị liệu cần thiết, tránh những thủ thuật không cần thiết, lan rộng có thể gây nhiều biến chứng hơn (sentinel node biopsy).
Báo cáo bệnh lý học sẽ cho biết có bao nhiêu hạch bạch huyết (lymphatic gland) đã được cắt ra đề thử nghiệm, và trong số đó, bao nhiêu hạch có chứa tế bào ung thư (lymph node ratio). Ví dụ, 0/3 có nghĩa là 3 hạch đã được lấy ra thử và không có hạch nào chứa tế bào ung thư, trong khi 2/5 có nghĩa là 5 hạch đã được lấy ra thử và 2 hạch có tế bào ung thư.
Kết quả cũng sẽ cho biết có bao nhiêu tế bào ung thư trong mỗi hạch, từ một vài tế bào nhỏ đến nhiều tế bào nhận diện dễ dàng. Càng nhiều tế bào ung thư thì bịnh càng nặng:
1) Microscopic: Mức tối thiểu: Chỉ có một vài tế bào ung thư nằm trong hạch. Cần có kính hiển vi để tìm chúng.
2)Macroscopic: Có rất nhiều khối u ở hạch có thể nhìn thấy, sờ thấy ung thư mà không cần kính hiển vi.
3) Extracapsular extension: Ung thư đã lan ra ngoài vỏ bọc của hạch (2)
U bướu ung thư vú loại gì,u lớn bao nhiêu, hạch bạch huyết có tế bào ung thư hay không, nhiều hay ít, tỷ lệ có ung thư (LNR: lymph node ratio) là những yếu tố quyết định quan trọng cách trị liệu, cũng như của dự hậu, nghĩa là tương lai người bịnh như thế nào (prognosis).
Staging system (I-V):
Stage IA:
U nhỏ hơn hay bằng 2cm, chưa lan ra ngoài vú , không có ung thư trong hạch bạch huyết
Stage IB:
Không có u hay u nhỏ hơn 2 cm trong vú, nhưng hạch bạch huyết có nhóm tế bào ung thư từ 0,2-2 mm
Stage II:
2A : không có u trong vú ,nhưng ung thư trong hạch lớn hơn 2mm trong 1-3 hạch.
-hay u nhỏ hơn hay bằng 2cm nhưng lan ra hạch ở nách
-u từ 2cm-5cm nhưng chưa lan qua hạch ở nách.
2B: u trong vú 2cm-5 cm, đã lan qua hạch (0.2mm-2mm hay 1/3 hạch)
-hay u trong vú trên 5cm
Stage III, u to hơn 5cm, hay hạch bị tế bào ung thư xâm chiếm nhiều hơn
Stage IV: bịnh nặng hơn (advanced cancer), di căn đi các bộ phận , các hạch ở xa (phổi, gan,xương, óc) (metastatic cancer).
Người ta thường tính dự hậu bằng tỷ lệ sống sót sau 5 năm tính từ khi định bịnh ung thư, hay 10 năm,hay một khoảng thời gian nào đó ngắn hơn.
Theo breastcancer.org, tỷ lệ sống sót sau 5 năm những bịnh nhân ung thư vú thuộc stage I và II là 100%-93% (theo thứ tự).
Theo cancer.net, tỷ lệ sống sót sau 5 năm (year-survival rate) trung bình cho ung thư vú là 89%; 10 năm ("10-year survival rate") 83%; 15 năm (15-year survival rate) 78%. Nếu ung thư giới hạn ở vú, 99% còn sống sau 5 năm, nếu đã vào hạch 85%, nếu đã di căn 26%. (2)
Xin nhắc lại tất cả nhận xét chỉ có tính cách thông tin, người bịnh cần nhờ bác sĩ của mình khám và trị bịnh.
Chúc bịnh nhân may mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 15 tháng 5 năm 2017
1) Female breast cancer in Vietnam: a comparison across Asian specific regions
Phuong Dung (Yun) Trieu, Claudia Mello-Thoms, and Patrick C. Brennan
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4607827/
2) From breastcancer.org:
“From the American Cancer Society website: The rates listed below come from the Surveillance Epidemiology and End Results (SEER) database from the National Cancer Institute, based on an older version of staging from the American Joint Committee on Cancer. At that time, stage II included patients that would now be considered stage IB.
Breast Cancer Stage 5-Year Survival Rate for Women
0 100%
I 100%
II 93%
III 72%
IV 22%
3) http://www.cancer.net/cancer-types/breast-cancer/statistics
Cảm ơn bác sĩ Hồ Văn Hiền. Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đã tham gia chương trình Hỏi đáp Y học này.
Quý vị có thể xem và nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com
Quý vị muốn được giải đáp các thắc mắc về những vấn đề y học thường thức, xin gọi đến số (202) 205-7890, hoặc E-mail đến địa chỉ <vietnamese@voanews.com>.