Tiếp nối câu chuyện phần một về nữ doanh nhân gốc Việt Lanvy Nguyễn với cách mà hãng thiết kế của chị áp dụng việc kinh doanh để tìm ra những giải pháp mang tính xã hội là những chia sẻ về các dự án được thực hiện ở Việt Nam với sự hợp tác giữa F4F và các doanh nghiệp Việt Nam. Và trong số những dự án này là câu chuyện về những người phụ nữ A Lưới dệt thổ cẩm để giao tiếp với xã hội, câu chuyện của hai hộ duy nhất còn làm chiếu ở làng Cẩm Xe, và câu chuyện đằng sau những đôi guốc gỗ được chạm khắc hình rồng.
Người A Lưới giao tiếp qua những tấm vải thổ cẩm
Trong suốt buổi phỏng vấn với VOA, nữ doanh nhân Lanvy Nguyễn đã dành rất nhiều thời gian để kể câu chuyện về những người phụ nữ dân tộc A Lưới, một dân tộc nằm trong số 28 dân tộc thiểu số ở Việt Nam không có hệ thống chữ viết. Cách mà họ giao tiếp với nhau và cả với những người bên ngoài là qua những tấm vải thổ cẩm mà họ dệt hay những tác phẩm, sản phẩm thủ cô ng, nghệ thuật khác. Màu sắc, hình vẽ, tất cả đều có một ý nghĩa đặc biệt nào đó với họ. Nhưng trước đó, làm cách nào mà F4F đã biết tới và gặp những người phụ nữ này? Chị Lanvy nói:
“Chúng tôi đã cung cấp cho một đơn vị kinh doanh xã hội địa phương ở Việt Nam những chiếc máy khâu trị giá 16,000 đô la. Đơn vị kinh doanh này lúc đó đang hoạt động để giúp đỡ những người khuyết tật và những phụ nữ A Lưới. Khi chúng tôi cung cấp những chiếc máy may cho đơn vị này, chúng tôi đã rất vui vì cùng lúc, họ vừa có thể giúp được những người khuyết tật; theo tôi thì người khuyết tật ở Việt Nam gặp khó khăn nhiều hơn những người khuyết tật ở Mỹ, bởi lẽ họ không có được những trang thiết bị như ở Mỹ, và họ vừa có thể giúp được những người dân tộc thiểu số. Và nhờ có họ mà chúng tôi được biết đến những sản phẩm của người A Lưới. Ngay khi chúng tôi nhìn thấy những sản phẩm của họ, chúng tôi đã hoàn toàn bị chinh phục.
Họ dệt những tấm vải này bằng cách cột những thanh tre vào trước người và làm thành một chiếc máy dệt, thay vì một chiếc máy dệt đứng thông thường. Như vậy, những sản phẩm mà họ dệt tùy thuộc vào việc họ có thể dang rộng chân đến cỡ nào. Đây là lý do vì sao mà tôi đã nói những gì họ làm ra là câu chuyện của cuộc đời họ. Những sản phẩm đó được kết nối với cơ thể họ, từ tay, chân, lưng, bàn chân, rồi ngay cả miền đất mà họ đang sinh sống, bởi lẽ những tấm vải được làm ra từ cây, từ gốc rễ, từ những bông hoa được trồng ngay trên chính miền đất đó. Những người cao tuổi thậm chí có thể phân biệt được các loại cây khác nhau từ những màu sắc này.
Hiện nay, theo lời chị Lanvy, F4F đang làm việc với những người dân tộc A Lưới này để cố gắng tiếp tục gieo trồng các loại cây này ở Việt Nam với mục tiêu có thể gìn giữ truyền thống dệt vải thủ công này:
“Trong 30 năm trở lại đây, những nhóm người dân tộc thiểu số ở A Lưới hay ở Sapa, cùng đều tạo ra những sản phẩm thổ cẩm như thế này, đơn giản là bởi vì có nhu cầu từ phía khách du lịch. Tuy nhiên trong thực tế, trên những tấm vải như thế này, đã có một thứ ngôn ngữ được viết trên đó nhưng đã bị biến mất. Điều mà chúng tôi cố gắng làm đó là có thể đem thứ ngôn ngữ này quay trở lại lần nữa và biến chúng trở nên phổ biến trở lại cho những người dân tộc thiểu số. Bởi lẽ, một khi những tấm vải như thế này có thể được đem bán và được tái tạo trong thị trường thiết kế hiện đại và thời trang hiện đại của chúng ta, cùng lúc, những người dân tộc thiểu số này có thể cất tiếng nói trở lại để họ có thể kể cho chúng ta nghe cuộc sống của họ, câu chuyện của họ, bởi lẽ chúng đều được viết trên những tấm vải như thế này.”
Làng chiếu Cẩm Xe
Không giống như vải thổ cẩm của dân tộc A Lưới khi có nét gì đó mang tính chất địa phương, chiếu lại là một sản phẩm rất phổ biến và gần gũi với đại đa số người dân Việt Nam. Trong số nhiều làng làm chiếu xuyên suốt Việt Nam, có một ngôi làng có thời từng chuyên làm chiếu cho tầng lớp thượng lưu ở Huế:
“Đó là làng chiếu Cẩm Xe. Đây là nơi mà thậm chí nhiều người Việt Nam cũng không biết tới nó. Đây là một ngôi làng nằm giữa Đà Nẵng và Huế. Họ dùng cỏ voi, một loại cỏ có mùi rất thơm, để làm chiếu. Trước đây, đã từng có khoảng 200 hộ làm chiếu, nhưng giờ con số đó chỉ còn lại đúng hai hộ. Những gia đình còn lại chỉ còn người già và trẻ con, còn những thành phần lao động trẻ độ tuổi 20 thì họ đều đã ra các khu thị trấn, thành phố lớn để làm việc ở các nhà máy. Và đây thực sự là một điều mà đã khiến tôi cảm thấy rất đau lòng về những ngôi làng làm nghề thủ công như vậy.
Khi đến đây, tôi đã gặp được hai chị em. Họ làm chiếu từ khi họ còn trẻ. Bây giờ thì họ sang ngôi làng chuyên bán cỏ voi bên cạnh để thu mua cỏ voi, tự tay nhuộm chúng và làm thành những tấm chiếu. Trong những năm 60 khi chiến tranh vẫn đang xảy ra, người chị đã từng bị một viên đạn bắn vào đầu khi đang sinh đứa con gái của mình. Hiện nay, viên đạn vẫn ở nguyên trong đầu bà ấy nhưng không ảnh hưởng gì tới cuộc sống của người chị cả. Tuy nhiên, chúng tôi không thể trực tiếp chụp ảnh bà ấy được vì nó gợi nhớ lại ký ức kinh hoàng sau lần đó. Tuy nhiên thì chúng tôi vẫn mua được một tấm chiếu duy nhất mà hai người chị em này dệt ra để bán, và người bạn của tôi giờ vẫn treo nó ở trong căn hộ của anh ấy ở San Francisco. Sau hai năm, tấm chiếu vẫn giữ được mùi thơm như lúc mới mua vậy.”
Những đôi guốc đế hình rồng
Làm việc trong ngành thiết kế bao gồm việc thiết kế thời trang, đã thực hiện nhiều dự án tại Việt Nam, và bản thân cũng là một người phụ nữ Việt, có lẽ sẽ có nhiều người thắc mắc tại sao chị chưa làm một dự án nào đó liên quan tới áo dài Việt Nam. Nhắc tới vấn đề này, chị Lanvy nói:
“Điều mà tôi cảm thấy có gì đó thiêu thiếu và hơi bối rối đó là khi xem những thí sinh trong các cuộc thi về sắc đẹp được tổ chức tại Mỹ mặc những chiếc áo dài. Tôi cảm thấy có một điều rất mỉa mai là khi nhìn những thí sinh này rất xinh xắn với tà áo dài ở phía trên, nhưng ở dưới thì họ lại đi những đôi giày cao gót hiện đại rất không phù hợp với những tà áo dài truyền thống, bởi lẽ những đôi giày cao gót này thể hiện hình ảnh người phụ nữ một cách rất khác biệt. Áo dài là thơ ca và bản thân nó có sự chuyển động. Trong lịch sử, áo dài luôn đi cùng với những đôi guốc được làm thủ công, cũng giống như những chiếc nón lá vậy. Ở Huế lúc trước, rất nhiều nam thanh nữ tú làm rất nhiều những bài thơ và gửi cho nhau qua những chiếc nón lá. Ở Việt Nam khi đó, nhất là ở khu vực nông thôn, nơi mà không có nhiều hình thức giải trí, thì người ta thường phải nghĩ ra một thứ gì đó để thay thế, và đó là nghệ thuật, đó là thủ công, đó là những kỹ thuật chạm khắc của các nghệ nhân.
Vì thế mà đối với nền văn hóa Việt Nam, sau hơn 30 năm vừa qua, tất cả những gì chúng ta đang làm là đưa áo dài vào những cuộc thi sắc đẹp, làm chúng trở nên lấp lánh, nhưng đồng thời, lại đang làm giảm đi giá trị của cả một nền văn hóa rất lớn. Và nói ngắn gọn, áo dài hiện đang là một trong số rất nhiều thứ trong cái tảng băng đang bị tan chảy.
Và để giữ cho tảng băng ấy ngừng tan chảy, như chị Lanvy chia sẻ lúc trước, áo dài cần phải có guốc. Để tạo ra những đôi guốc vừa phù hợp và tôn lên giá trị của những tà áo dài, đồng thời vẫn có thể đưa vào cuộc sống hiện đại hàng ngày, F4F đã hợp tác với một xưởng chạm khắc gỗ để tạo ra những đôi guốc gỗ được chạm khắc hình rồng:
“Chúng tôi ban đầu đã không có ý định thiết kế những đôi guốc như thế này. Bởi vì chúng tôi đã tạo quỹ cho một người thợ mộc. Việc kinh doanh của ông ấy vốn dĩ chỉ xoay quanh tạc những con rồng, những cây cột cao 2m, hay những cây cột trụ trong các ngôi chùa. Và ông ấy cần tới những thiết bị mới. Khi tôi tới thăm cơ sở của ông ấy, tôi thấy đó là một ngôi nhà rất nhỏ. Ở đó có hai cậu bé con và vợ của ông ấy giúp đỡ công việc của ông ấy. Tất cả bọn họ sống trong một ngôi lán chỉ có duy nhất một phòng nhưng ông ấy đúc ra những sản phẩm tuyệt vời không thể tin nổi.
Người trợ lý của tôi (một người Mỹ ở New Jersey tự đặt tên tiếng Việt cho mình là Lê Thị Xoài vì đây là ba loại trái cây ưa thích của cô) đi cùng tôi lúc đó đang chụp ảnh, còn tôi thì đùa giỡn trèo lên một trong các cây cột và đứng lên trên một cây cột đầu rồng. Tôi lúc đó nói rằng sẽ rất tuyệt vời nếu đem mẫu rồng này vào để thiết kế những đôi guốc. Khi đó tất cả mọi người cười tôi nhưng tôi nói rằng, không, mọi người thử nghĩ xem, chúng ta có rất nhiều các cuộc thi sắc đẹp của cộng đồng người Việt trên khắp thế giới nhưng ngoài những chương trình đơn thuần phô diễn hình ảnh những tà áo dài thì chúng ta không thấy hình ảnh những đôi guốc phù hợp với những tà áo dài truyền thống mà thay vào đó là nhưng đôi giày cao gót hiện đại, chúng ta không thấy hình ảnh những chiếc nón lá, hay lịch sử nằm đằng sau những bộ trang phục truyền thống này.”
Cùng thời điểm đó, chị Lanvy ở Việt Nam và cũng đang cố gắng tìm kiếm những nơi sản xuất guốc nhưng cũng không thể tìm thấy nơi nào có, và đó là điều mà chị nói là chúng ta còn thiếu. Lúc đó chị đã nghĩ là tại sao chúng ta không tự mình làm và sản xuất những đôi guốc làm sao để giúp được người thợ mộc này và giúp ông ấy tiếp tục giúp đỡ được ngôi làng nơi ông ấy sống. Rồi sau đó, làm sao chúng ta có thể thúc đẩy nền kinh tế mà chỉ dựa trên việc vực dậy những ngành nghề thủ công Việt Nam theo cách mà vẫn tạo ra được những sản phẩm đẹp và tôn trọng giá trị truyền thống cốt lõi bên trong các sản phẩm đó. Chị nói chúng ta không thể nào chỉ có gắn hai thứ vào với nhau rồi tung ra thị trường. Điều chị nhấn mạnh là phải trung thành và tôn trọng sự chân thật của những sản phẩm đó.
Trách nhiệm xã hội của một doanh nhân
Ngoài xưởng thủ công mà chị vừa kể, chị cho biết F4F của chị còn đang làm việc với ba ngôi làng khác vì cuối cùng, chị và F4F muốn xây dựng một hệ thống có một nghệ nhân bậc thầy có thể truyền lại phương pháp chế tạo các sản phẩm truyền thống cho các nhóm người khác. Tuy nhiên, điều quan trọng mà F4F của chị muốn thực hiện bây giờ là làm việc với một kỹ sư để hiểu được quá trình sản xuất một sản phẩm như thế này có thể gây ảnh hưởng gì tới hệ sinh thái mà người thợ mộc đang sinh sống hay không:
“Bởi vì hiện nay, thực tế thì có một số thợ mộc đang thu mua lại những sản phẫm gỗ quý trái phép từ Lào. Điều mà chúng tôi muốn làm đó là muốn những người thợ mộc thử tìm hiểu những loại cây có thể trồng lại được và sử dụng ngay những loại cây mà họ vốn có sẵn trong vườn để có thể tạo ra những sản phẩm gỗ không gây ảnh hưởng tới môi trường. Một số loại cây mà chúng tôi nhờ những người thợ mộc này tìm hiểu là gỗ từ cây mít, cây vải, cây xoài, và một số loại cây khác nữa mà chúng ta có thể mua lại từ những vườn cây.
Nói tóm gọn lại, điều mà chúng tôi muốn nghĩ tới đó là làm cách nào để những người thợ mộc có thể cứu được tình hình kinh tế của chính bản thân họ, tức là cũng giúp được một nền kinh tế khác, và đồng thời tìm cách để vẫn thân thiện được với môi trường. Như vậy, thách thức đặt ra cho chúng tôi là thực sự lớn, bởi lẽ, đối với tôi, chọn một con đường tạo ra một điều gì đó mới mẻ, khác biệt, có nghĩa là nó sẽ phải đạt được nhiều mục đích. Khối lượng thời gian và số tiền mà tổ chức của chúng tôi đầu tư vào khu vực này phải thực hiện được nhiều nhiệm vụ cùng một lúc.”
Là một người có nhiều năm kinh nghiệm đã từng xuống quan sát trực tiếp tại những xưởng sản xuất và may quần áo, chị Lanvy nói rằng có rất nhiều nhà thiết kế không biết rằng những chất liệu vải mà họ mong muốn cho những sản phẩm thời trang của họ có thể vô tình đã khiến chúng ta phải trả một cái giá rất đắt. Đó là nguồn nước bị ô nhiễm hóa chất, là cây cối bị đốn hạ bừa bãi, trái phép, hay là hàng tấn rác thải công nghiệp bị thải ra hàng năm:
“Chúng ta thường không nghĩ tới những tác động từ môi trường cho tới khi chúng trực tiếp ảnh hưởng tới chúng ta, trong khi chúng ta đang tận hưởng những ngày nghỉ phép ở bờ biển Hawaii. Bất ngờ chúng ta trông thấy rất nhiều rác thải bị trôi tới đó và giật mình tự hỏi những thứ này đến từ đâu. Và tôi nghĩ, chúng ta cần phải thay đổi điều này.”
Không chỉ là chuyện kinh doanh hay chuyện bảo vệ môi trường, những công việc mà chị Lanvy đang làm có rất nhiều phần liên quan tới việc gìn giữ bảo tồn các giá trị văn hóa Việt Nam bởi một lẽ:
“Trong những điều mà chúng tôi đang làm cũng có một phần liên quan tới những di sản văn hóa bởi lẽ tôi không thể chối bỏ việc mình là một người Việt Nam. Và những đôi guốc được chạm khắc hình rồng là thứ mà khi có ai đó nhìn thấy chúng, họ sẽ hỏi tôi bạn đến từ đâu, và tôi có thể tự hào nói tôi đến từ Việt Nam. Có lần tôi ngồi trên máy bay, có một người ở Cincinnati hỏi tôi bạn đến từ đâu, tôi nói tôi đến từ Việt Nam, và anh ta thốt lên rằng nhưng tiếng anh của chị tốt quá, nghe như người Mỹ vậy, và tôi nói à thì cũng đại khái là như vậy.”
Xuyên suốt buổi trò chuyện với rất rất nhiều câu chuyện mà chị Lanvy chia sẻ, có một điều mà chị Lanvy không quên nhấn mạnh: Chị và F4F của chị không phải là những người tìm ra giải pháp giúp đỡ doanh nghiệp hay người nghèo ở Việt Nam thoát khỏi cảnh nghèo đói, mà đơn giản chị và F4F chỉ muốn cộng tác với những doanh nghiệp ở Việt Nam để cùng tìm ra những giải pháp giải quyết những vấn đề xã hội như nghèo đói, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, hay bảo vệ hệ sinh thái.