Từ khoảng 5 năm trở lại đây, khủng hoảng kinh tế thế giới khiến vàng trở thành công cụ trú ẩn lý tưởng của cả thế giới. Ở Việt Nam, do nội tệ liên tục có lạm phát cao và mất giá so với các ngoại tệ mạnh, đồng tiền Việt luôn luôn bị “hắt hủi” trong tương quan với Đồng Đô la Mỹ. Kết hợp lại, câu chuyện vàng hóa và đô la hóa trở thành một bài toán đau đầu của các nhà lập chính sách. Từ 25 tháng 5 năm nay, chính phủ đã thực hiện độc quyền trên thị trường vàng miếng và theo Thống đốc trả lời trước Quốc hội những ngày vừa qua, hệ thống ngân hàng đã liên tục mua vàng của dân từ đầu năm, lên tới con số 60 tấn, tương đương với khoảng 3 tỷ USD.
Liệu việc độc quyền thị trường vàng miếng và việc tăng cường mua vàng của dân có phải là một đối sách hữu hiệu để chống vàng hóa?
Đô la hóa và vàng hóa
Đô la hóa hay vàng hóa được hiểu một cách đơn giản là hiện tượng người dân của một nước lựa chọn sử dụng Đô la Mỹ hoặc vàng làm phương tiện thanh toán, giao dịch, và dự trữ thay vì sử dụng đồng nội tệ. Lấy một ví dụ tiêu biểu, nếu một khách du lịch đi rút tiền ở Cambodia, nước có hiện tượng Đô la hóa cao nhất thế giới, thì thứ tiền mà máy rút tiền tự động ATM nhả cho khách rút tiền không phải là đồng tiền Cambodia mà là đồng Đô la Mỹ. Đồng Đô la Mỹ được sử dụng làm đồng tiền chính thức thay cho nội tệ của Cambodia trong tất cả các giao dịch vừa và lớn.
Trong một báo cáo chuẩn bị cho Ngân hàng Phát triển Châu Á hồi năm 2008 với tựa đề “Đô la hóa hay chống Đô la hóa: Các hệ lụy cho chính sách tiền tệ” do Patricia Alvarez-Plata và Alicia Garcia-Herrero đồng tác giả, Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia có mức độ Đô la hóa trung bình. Báo cáo này ước tính mức độ Đô la hóa ở một nước bằng cách tính tỷ lệ tiền gửi nội địa ở một nước bằng USD trên tổng giá trị tiền gửi ở nước đó. Số liệu mà Patricia Alvarez-Plata và Alicia Garcia-Herrero dẫn chiếu cho thấy tỷ lệ này ở Việt Nam giao động trong khoảng 30% đến 40% và có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2000 tới 2004. Mức độ Đô la hóa của Việt Nam được báo cáo này xếp cùng nhóm với Nga và Philippines, thấp hơn nhiều so với Lào và Cambodia, nhưng cao hơn hẳn Indonesia, Malaysia, và Thái Lan.
Vàng hóa khác một chút so với Đô la hóa ở chỗ nó ít khi được dùng làm phương tiện thanh toán mà thường được dùng làm phương tiện dự trữ. Việt Nam từng có hiện tượng vàng được dùng làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch lớn như mua bán nhà đất. Tuy nhiên, từ khoảng 10 năm trở lại đây thì đồng Đô la Mỹ đã chiếm giữ vị trí của vàng trong các giao dịch lớn. Tới nay, hiện tượng vàng hóa chỉ còn giới hạn trong vai trò là phương tiện dự trữ giá trị và phương tiện để đầu cơ. Theo số liệu của Thống đốc Nguyễn Văn Bình trình bày trước Quốc hội ngày 31 tháng 10 vừa qua, thì trong nền kinh tế hiện nay có 300 – 400 tấn vàng, tương đương với nguồn lực khoảng 15 - 20 tỷ USD. Số vàng này đang đóng vai trò là phương tiện dự trữ, và không được đưa vào lưu thông hay đầu tư.
Đứng về mặt điều hành của nhà nước, vàng hóa và Đô la hóa ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tài khóa và tiền tệ của quốc gia. Trong những trường hợp cực đoan như Cambodia, chính sách tiền tệ hầu như không còn bất cứ tác dụng gì vì ngân hàng trung ương của nước này không thể “bơm” hay “hút” tiền tùy ý từ dân chúng. Tương tự như thế, việc thực thi chính sách tài khóa, đặc biệt là việc dùng biện pháp in tiền để tài trợ chi tiêu chính phủ, trở nên không thực hiện được. Những hạn chế này trong điều kiện kinh tế bình thường không phải là các hạn chế chết người. Tuy nhiên, khi các nền kinh tế này lâm vào khủng hoảng, việc không có trong tay các công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ hữu hiệu có thể đẩy nền kinh tế vào chỗ không có đường thoát. Trường hợp của Hy Lạp trong những năm gần đây là một ví dụ kinh điển. Hy Lạp không bị vàng hóa hay Đô la hóa, mà bị “Euro hóa” khi nước này tham gia vào khối đồng tiền chung, và tự đánh mất sự chủ động về tài khóa và tiền tệ.
Xóa vàng hóa bằng cách tăng cường mua vàng của dân
Nền tảng cơ bản để chống vàng hóa và Đô la hóa là tăng cường sức mạnh của đồng nội tệ. Đến lượt nó, điều này lại chỉ có thể thực hiện được khi có một nền kinh tế nội địa vững chắc, một cán cân mậu dịch lành mạnh, và chính sách tiền tệ cẩn trọng.
Việt Nam mặc dù từng có tốc độ tăng trưởng cao trong số các nền kinh tế đang phát triển, nhưng ít nhất là trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự tăng trưởng này dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và liên tục tăng đầu tư với chính sách tiền tệ dễ dãi trong khi năng suất lao động lại thụt lùi. Điều này dẫn tới thâm hụt mậu dịch và lạm phát cao triền miên. Riêng việc này đã làm cho đồng nội tệ kém hấp dẫn so với ngoại tệ mạnh. Cộng thêm nữa là việc phá giá giật cục, bất thình lình, khiến cho người tiêu dùng không thể trở tay kịp. Kết hợp lại, nó làm cho lòng tin vào đồng nội tệ bị bào mòn qua nhiều năm, và tạo thành một kỳ vọng vững chắc về vòng xoáy chôn ốc đi xuống của đồng nội tệ. Đó là cơ sở vững chắc của hiện tượng vàng hóa và Đô la hóa.
Chưa tạo lập được một nền tảng vững chắc để xóa bỏ vàng hóa và Đô la hóa, Việt Nam thường phải dựa vào các biện pháp hành chính. Hai nỗ lực gần đây nhất của Ngân hàng Nhà nước liên quan đến thị trường vàng là thực hiện độc quyền vàng miếng và mua vàng từ công chúng.
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, việc mua 60 tấn vàng từ công chúng từ đầu năm trở lại đây “đã chuyển số vàng này đổi sang tiền để phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội” và “điều này thể hiện mục tiêu chặn đứng vàng hóa và huy động vốn trở lại cho nền kinh tế đã được thực hiện”. Lập luận này khá đơn giản: dân có ít vàng hơn, hiện tượng vàng hóa sẽ phải giảm.
Một điểm cần làm rõ trong tuyên bố của Thống đốc là chuyện ngân hàng nào mua 60 tấn vàng. Thực tế là hệ thống ngân hàng thương mại mua số vàng này chứ không phải Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thương mại mua vàng từ công chúng suất phát từ nhiều lý do riêng của họ, trong đó có câu chuyện đóng tình trạng “short” trong tài khoản buôn bán vàng của các ngân hàng này và để phục vụ việc người dân rút vàng đã gửi từ vào hệ thống ngân hàng từ trước.
Thế nhưng cứ giả sử là NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại hoặc NHNN trực tiếp mua vàng từ công chúng để chống vàng hóa. Thì nếu như chỉ có riêng động thái này, thì về mặt nguyên tắc, nó không giúp gì được cho mục tiêu chống vàng hóa mà chỉ có chức năng bơm tiền vào nền kinh tế. Việc mua vàng từ công chúng thậm chí có tác dụng ngược lại vì nó đẩy giá vàng trong nước lên cao hơn (nếu cấm nhập khẩu vàng) hoặc đẩy nhập khẩu vàng lên cao (nếu vẫn cho nhập khẩu vàng tự do).
Lý do rất đơn giản vì khi có một lượng cầu lớn đến như vậy (60 tấn) hút vàng ra khỏi thị trường thì hoặc là lượng cung phải tăng lên tương ứng qua nhập khẩu, hoặc nếu không thì giá phải tăng. Cả hai hiện tượng này đều không có lợi gì cho việc chống vàng hóa. Trường hợp lượng cung tăng lên do nhập khẩu đồng nghĩa với lượng vàng trong dân vẫn như cũ, chỉ khác là hệ thống ngân hàng gián tiếp nhập khẩu vàng. Trường hợp giá tăng thì thậm chí còn tệ hơn vì động thái mua vào của hệ thống ngân hàng lại tạo ra kỳ vọng về giá vàng tiếp tục tăng (vì nguồn cung khan hiếm hơn sau khi bị hệ thống hút mà không có bổ xung).
Một hệ lụy khác tinh tế hơn là có thể NHNN đã phải in tiền ra để hỗ trợ các NH thương mại mua vàng. Đó là chưa kể việc tiếp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng liên tục trong nhiều tháng từ đầu năm tới nay. Cộng gộp lại, ngay cả việc chống vàng hóa thành công như NHNN tuyên bố thì nó vẫn là một sự đánh đổi nguy hiểm và luẩn quẩn: chống vàng hóa bằng cách tạo thêm rủi ro cho tiền Đồng, từ đó tạo tiền đề để quá trình vàng hóa và Đô la hóa trở nên sâu sắc thêm. (còn tiếp)
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Liệu việc độc quyền thị trường vàng miếng và việc tăng cường mua vàng của dân có phải là một đối sách hữu hiệu để chống vàng hóa?
Đô la hóa và vàng hóa
Đô la hóa hay vàng hóa được hiểu một cách đơn giản là hiện tượng người dân của một nước lựa chọn sử dụng Đô la Mỹ hoặc vàng làm phương tiện thanh toán, giao dịch, và dự trữ thay vì sử dụng đồng nội tệ. Lấy một ví dụ tiêu biểu, nếu một khách du lịch đi rút tiền ở Cambodia, nước có hiện tượng Đô la hóa cao nhất thế giới, thì thứ tiền mà máy rút tiền tự động ATM nhả cho khách rút tiền không phải là đồng tiền Cambodia mà là đồng Đô la Mỹ. Đồng Đô la Mỹ được sử dụng làm đồng tiền chính thức thay cho nội tệ của Cambodia trong tất cả các giao dịch vừa và lớn.
Trong một báo cáo chuẩn bị cho Ngân hàng Phát triển Châu Á hồi năm 2008 với tựa đề “Đô la hóa hay chống Đô la hóa: Các hệ lụy cho chính sách tiền tệ” do Patricia Alvarez-Plata và Alicia Garcia-Herrero đồng tác giả, Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia có mức độ Đô la hóa trung bình. Báo cáo này ước tính mức độ Đô la hóa ở một nước bằng cách tính tỷ lệ tiền gửi nội địa ở một nước bằng USD trên tổng giá trị tiền gửi ở nước đó. Số liệu mà Patricia Alvarez-Plata và Alicia Garcia-Herrero dẫn chiếu cho thấy tỷ lệ này ở Việt Nam giao động trong khoảng 30% đến 40% và có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 2000 tới 2004. Mức độ Đô la hóa của Việt Nam được báo cáo này xếp cùng nhóm với Nga và Philippines, thấp hơn nhiều so với Lào và Cambodia, nhưng cao hơn hẳn Indonesia, Malaysia, và Thái Lan.
Vàng hóa khác một chút so với Đô la hóa ở chỗ nó ít khi được dùng làm phương tiện thanh toán mà thường được dùng làm phương tiện dự trữ. Việt Nam từng có hiện tượng vàng được dùng làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch lớn như mua bán nhà đất. Tuy nhiên, từ khoảng 10 năm trở lại đây thì đồng Đô la Mỹ đã chiếm giữ vị trí của vàng trong các giao dịch lớn. Tới nay, hiện tượng vàng hóa chỉ còn giới hạn trong vai trò là phương tiện dự trữ giá trị và phương tiện để đầu cơ. Theo số liệu của Thống đốc Nguyễn Văn Bình trình bày trước Quốc hội ngày 31 tháng 10 vừa qua, thì trong nền kinh tế hiện nay có 300 – 400 tấn vàng, tương đương với nguồn lực khoảng 15 - 20 tỷ USD. Số vàng này đang đóng vai trò là phương tiện dự trữ, và không được đưa vào lưu thông hay đầu tư.
Đứng về mặt điều hành của nhà nước, vàng hóa và Đô la hóa ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách tài khóa và tiền tệ của quốc gia. Trong những trường hợp cực đoan như Cambodia, chính sách tiền tệ hầu như không còn bất cứ tác dụng gì vì ngân hàng trung ương của nước này không thể “bơm” hay “hút” tiền tùy ý từ dân chúng. Tương tự như thế, việc thực thi chính sách tài khóa, đặc biệt là việc dùng biện pháp in tiền để tài trợ chi tiêu chính phủ, trở nên không thực hiện được. Những hạn chế này trong điều kiện kinh tế bình thường không phải là các hạn chế chết người. Tuy nhiên, khi các nền kinh tế này lâm vào khủng hoảng, việc không có trong tay các công cụ chính sách tài khóa và tiền tệ hữu hiệu có thể đẩy nền kinh tế vào chỗ không có đường thoát. Trường hợp của Hy Lạp trong những năm gần đây là một ví dụ kinh điển. Hy Lạp không bị vàng hóa hay Đô la hóa, mà bị “Euro hóa” khi nước này tham gia vào khối đồng tiền chung, và tự đánh mất sự chủ động về tài khóa và tiền tệ.
Xóa vàng hóa bằng cách tăng cường mua vàng của dân
Nền tảng cơ bản để chống vàng hóa và Đô la hóa là tăng cường sức mạnh của đồng nội tệ. Đến lượt nó, điều này lại chỉ có thể thực hiện được khi có một nền kinh tế nội địa vững chắc, một cán cân mậu dịch lành mạnh, và chính sách tiền tệ cẩn trọng.
Việt Nam mặc dù từng có tốc độ tăng trưởng cao trong số các nền kinh tế đang phát triển, nhưng ít nhất là trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự tăng trưởng này dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và liên tục tăng đầu tư với chính sách tiền tệ dễ dãi trong khi năng suất lao động lại thụt lùi. Điều này dẫn tới thâm hụt mậu dịch và lạm phát cao triền miên. Riêng việc này đã làm cho đồng nội tệ kém hấp dẫn so với ngoại tệ mạnh. Cộng thêm nữa là việc phá giá giật cục, bất thình lình, khiến cho người tiêu dùng không thể trở tay kịp. Kết hợp lại, nó làm cho lòng tin vào đồng nội tệ bị bào mòn qua nhiều năm, và tạo thành một kỳ vọng vững chắc về vòng xoáy chôn ốc đi xuống của đồng nội tệ. Đó là cơ sở vững chắc của hiện tượng vàng hóa và Đô la hóa.
Chưa tạo lập được một nền tảng vững chắc để xóa bỏ vàng hóa và Đô la hóa, Việt Nam thường phải dựa vào các biện pháp hành chính. Hai nỗ lực gần đây nhất của Ngân hàng Nhà nước liên quan đến thị trường vàng là thực hiện độc quyền vàng miếng và mua vàng từ công chúng.
Theo Thống đốc Nguyễn Văn Bình, việc mua 60 tấn vàng từ công chúng từ đầu năm trở lại đây “đã chuyển số vàng này đổi sang tiền để phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội” và “điều này thể hiện mục tiêu chặn đứng vàng hóa và huy động vốn trở lại cho nền kinh tế đã được thực hiện”. Lập luận này khá đơn giản: dân có ít vàng hơn, hiện tượng vàng hóa sẽ phải giảm.
Một điểm cần làm rõ trong tuyên bố của Thống đốc là chuyện ngân hàng nào mua 60 tấn vàng. Thực tế là hệ thống ngân hàng thương mại mua số vàng này chứ không phải Ngân hàng nhà nước. Các ngân hàng thương mại mua vàng từ công chúng suất phát từ nhiều lý do riêng của họ, trong đó có câu chuyện đóng tình trạng “short” trong tài khoản buôn bán vàng của các ngân hàng này và để phục vụ việc người dân rút vàng đã gửi từ vào hệ thống ngân hàng từ trước.
Thế nhưng cứ giả sử là NHNN chỉ đạo các ngân hàng thương mại hoặc NHNN trực tiếp mua vàng từ công chúng để chống vàng hóa. Thì nếu như chỉ có riêng động thái này, thì về mặt nguyên tắc, nó không giúp gì được cho mục tiêu chống vàng hóa mà chỉ có chức năng bơm tiền vào nền kinh tế. Việc mua vàng từ công chúng thậm chí có tác dụng ngược lại vì nó đẩy giá vàng trong nước lên cao hơn (nếu cấm nhập khẩu vàng) hoặc đẩy nhập khẩu vàng lên cao (nếu vẫn cho nhập khẩu vàng tự do).
Lý do rất đơn giản vì khi có một lượng cầu lớn đến như vậy (60 tấn) hút vàng ra khỏi thị trường thì hoặc là lượng cung phải tăng lên tương ứng qua nhập khẩu, hoặc nếu không thì giá phải tăng. Cả hai hiện tượng này đều không có lợi gì cho việc chống vàng hóa. Trường hợp lượng cung tăng lên do nhập khẩu đồng nghĩa với lượng vàng trong dân vẫn như cũ, chỉ khác là hệ thống ngân hàng gián tiếp nhập khẩu vàng. Trường hợp giá tăng thì thậm chí còn tệ hơn vì động thái mua vào của hệ thống ngân hàng lại tạo ra kỳ vọng về giá vàng tiếp tục tăng (vì nguồn cung khan hiếm hơn sau khi bị hệ thống hút mà không có bổ xung).
Một hệ lụy khác tinh tế hơn là có thể NHNN đã phải in tiền ra để hỗ trợ các NH thương mại mua vàng. Đó là chưa kể việc tiếp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng liên tục trong nhiều tháng từ đầu năm tới nay. Cộng gộp lại, ngay cả việc chống vàng hóa thành công như NHNN tuyên bố thì nó vẫn là một sự đánh đổi nguy hiểm và luẩn quẩn: chống vàng hóa bằng cách tạo thêm rủi ro cho tiền Đồng, từ đó tạo tiền đề để quá trình vàng hóa và Đô la hóa trở nên sâu sắc thêm. (còn tiếp)
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.