Mỗi lãnh tụ đều có một tầm vóc, một kích thước và một phong cách riêng. Nhưng khi đánh giá họ, để chính xác, cần đặt những cái riêng ấy vào một bối cảnh chung: Lịch sử. Mọi đánh giá đều phải có tính lịch sử. Từ góc độ lịch sử, một lãnh tụ có thể được đánh giá từ hai khía cạnh: Một, những gì họ kết thúc và hai, những gì họ mở ra.
Trong bài “Mandela for the Ages” đăng trên tờ Project Syndicate số ra ngày 6 tháng 12 năm 2013, Gareth Evans, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao của Úc, Chủ tịch Nhóm giải quyết các khủng hoảng quốc tế (International Crisis Group) thuộc Liên Hiệp Quốc, nêu lên một nhận xét sâu sắc về Nelson Mandela, cựu Tổng thống Nam Phi, người vừa mới qua đời ngày 5 tháng 12 vừa qua: Không có Mandela, chế độ kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi thế nào cũng kết thúc trước sức ép nặng nề của thế giới; nhưng nếu không có Mandela, sự chuyển tiếp của Nam Phi sau thời kỳ kỳ thị chủng tộc chắc chắn sẽ nhiều gập ghềnh, khúc khuỷu và có khi đẫm máu. Như những gì Slobodan Milošević đã gây ra cho Yugoslavia và Robert Mugabe đã gây ra cho Zimbabwe, v.v..
Trong bài “Madiba put his country above all else”, Deborah Snow, phóng viên đài ABC của Úc kể lại kỷ niệm của bà về cuộc phỏng vấn Mandela lúc ông mới ra khỏi nhà tù vào năm 1990, cuộc phỏng vấn mà bà cho là để lại nhiều ấn tượng nhất trong suốt hơn 30 năm làm báo của bà. Ấn tượng sâu đậm nhất, với bà, là, trong suốt cuộc phỏng vấn, Mandela, một người vừa mới thoát khỏi 27 năm tù đày, đã không nói gì về những kinh nghiệm đau đớn, cay đắng và oán hận đã qua mà chỉ say sưa bàn về tương lai, về viễn kiến đối với đất nước, về sự tự do, bình đẳng, hòa bình và thịnh vượng của mọi người.
Trong bài “Nelson Mandela: By far the greatest man” đăng trên báo The Age ngày 6 tháng 12 năm 2013, Malcolm Fraser, cựu Thủ tướng Úc, người từng gặp Mandela vài lần, cũng có nhận xét như thế: Nói chuyện với Fraser, ngay sau khi mới ra khỏi nhà tù, Mandela đã từ chối nói chuyện về quá khứ, ông chỉ muốn nói đến tương lai.
Những nhận xét của Evans, Snow và Fraser cũng dễ dàng được bắt gặp ở các chính khách và các cây bút khác trên thế giới khi nhận định về Mandela: Với họ, đó là một người trở thành vĩ nhân, hơn nữa, một trong những vĩ nhân đáng kính phục nhất trong cả thế kỷ, nhờ vào những mơ ước hướng về tương lai và nhờ những con đường ông đã mở ra cho đất nước của ông cũng như những cảm hứng ông đã gợi lên cho nhân loại. Khi trở thành cảm hứng của nhân loại, ông cũng đồng thời trở thành một trong những lãnh tụ của nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà, khi nghe tin Mandela mất, một số quốc gia trên thế giới, kể cả Mỹ, đã ra lệnh hạ quốc kỳ của họ xuống một nửa cột cờ để bày tỏ sự kính trọng và thương tiếc, một nghi lễ hiếm hoi dành cho những người được xem là lãnh tụ mang tầm vóc quốc tế.
Có thể nói cái lớn của Mandela là biết nhìn về phía trước, biết khuyên mọi người nhìn về phía trước để cùng nhau xây dựng một đất nước trong đó luật pháp và sự bình đẳng phải được tôn trọng. Để tránh ngộ nhận, cần lưu ý: Với Mandela, quên quá khứ hay tha thứ những tội ác người khác đã làm cho mình và dân tộc mình không đồng nghĩa với sự thỏa hiệp, nhân nhượng hay dễ dãi. Ngược lại. Lúc nào ông cũng trung thành với một nguyên tắc: công chính. Tha thì tha nhưng sự công chính phải được thực hiện cho mọi người. Sự tha thứ đi liền với sự đòi hỏi một cách quyết liệt. Nhờ thế, quá trình chuyển tiếp từ một chế độ kỳ thị chủng tộc đến một chế độ tự do, bình đẳng và dân chủ mà Mandela thiết lập tại Nam Phi đã trở thành một kiểu mẫu của thế giới.
Từ kinh nghiệm của Nelson Mandela, nhìn lại giới lãnh tụ Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua, chúng ta thấy gì?
Thấy, rõ nhất, tầm vóc của họ đều được hình thành từ những gì họ kết thúc: Họ chấm dứt chủ nghĩa thực dân của Pháp năm 1954 và kết thúc sự chia cắt đất nước năm 1975. Nhìn từ góc độ này, một số người trong họ, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, đã được nhiều người Việt Nam ngưỡng mộ và không ít người trên thế giới kính phục. Coi như thần tượng.
Nhưng sau sự kết thúc oanh liệt ấy, họ mở ra những gì?
Chỉ có tai họa.
Trùng trùng tai họa.
Tai họa cho dân chúng.
Tai họa cho đất nước.
Tai họa cho cả nhiều thế hệ mai sau do những con số nợ nần chồng chất, do những cơ chế vừa nặng nề vừa bất nhân lại vừa vô hiệu, và quan trọng hơn, do sự suy thoái về xã hội và băng hoại về đạo đức.
Trong số các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau này, nhìn lại, hầu như chỉ có hai người được khen ngợi ít nhiều vì đã mở ra một cái gì đó: Thứ nhất là Trường Chinh, những năm cuối đời, đã quyết định đổi mới; và thứ hai, Võ Văn Kiệt, người đã có công “xé rào” để dám thay đổi, dù chỉ một phần, một số chính sách kinh tế sai lầm của đảng Cộng sản. Nhưng những cái mới mà cả Trường Chinh lẫn Võ Văn Kiệt mở ra đều là những cái mới nửa vời: Kết quả, người ta chỉ thấy vài cuộc “xé rào” nho nhỏ, vá víu, lặt vặt.
Ngoài Trường Chinh và Võ Văn Kiệt, tất cả những người khác trong giới lãnh đạo đều chỉ biết quay đầu nhìn vào quá khứ, trên đó, người ta xây dựng chiếc ghế và kho tiền của mình.
Điều oái oăm là khi chiếc ghế và kho tiền bạc châu báu của họ càng cao, tầm vóc của họ, dưới mắt quần chúng cũng như trong lịch sử, càng thấp xuống. Càng lùn tịt.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Trong bài “Mandela for the Ages” đăng trên tờ Project Syndicate số ra ngày 6 tháng 12 năm 2013, Gareth Evans, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao của Úc, Chủ tịch Nhóm giải quyết các khủng hoảng quốc tế (International Crisis Group) thuộc Liên Hiệp Quốc, nêu lên một nhận xét sâu sắc về Nelson Mandela, cựu Tổng thống Nam Phi, người vừa mới qua đời ngày 5 tháng 12 vừa qua: Không có Mandela, chế độ kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi thế nào cũng kết thúc trước sức ép nặng nề của thế giới; nhưng nếu không có Mandela, sự chuyển tiếp của Nam Phi sau thời kỳ kỳ thị chủng tộc chắc chắn sẽ nhiều gập ghềnh, khúc khuỷu và có khi đẫm máu. Như những gì Slobodan Milošević đã gây ra cho Yugoslavia và Robert Mugabe đã gây ra cho Zimbabwe, v.v..
Trong bài “Madiba put his country above all else”, Deborah Snow, phóng viên đài ABC của Úc kể lại kỷ niệm của bà về cuộc phỏng vấn Mandela lúc ông mới ra khỏi nhà tù vào năm 1990, cuộc phỏng vấn mà bà cho là để lại nhiều ấn tượng nhất trong suốt hơn 30 năm làm báo của bà. Ấn tượng sâu đậm nhất, với bà, là, trong suốt cuộc phỏng vấn, Mandela, một người vừa mới thoát khỏi 27 năm tù đày, đã không nói gì về những kinh nghiệm đau đớn, cay đắng và oán hận đã qua mà chỉ say sưa bàn về tương lai, về viễn kiến đối với đất nước, về sự tự do, bình đẳng, hòa bình và thịnh vượng của mọi người.
Trong bài “Nelson Mandela: By far the greatest man” đăng trên báo The Age ngày 6 tháng 12 năm 2013, Malcolm Fraser, cựu Thủ tướng Úc, người từng gặp Mandela vài lần, cũng có nhận xét như thế: Nói chuyện với Fraser, ngay sau khi mới ra khỏi nhà tù, Mandela đã từ chối nói chuyện về quá khứ, ông chỉ muốn nói đến tương lai.
Những nhận xét của Evans, Snow và Fraser cũng dễ dàng được bắt gặp ở các chính khách và các cây bút khác trên thế giới khi nhận định về Mandela: Với họ, đó là một người trở thành vĩ nhân, hơn nữa, một trong những vĩ nhân đáng kính phục nhất trong cả thế kỷ, nhờ vào những mơ ước hướng về tương lai và nhờ những con đường ông đã mở ra cho đất nước của ông cũng như những cảm hứng ông đã gợi lên cho nhân loại. Khi trở thành cảm hứng của nhân loại, ông cũng đồng thời trở thành một trong những lãnh tụ của nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà, khi nghe tin Mandela mất, một số quốc gia trên thế giới, kể cả Mỹ, đã ra lệnh hạ quốc kỳ của họ xuống một nửa cột cờ để bày tỏ sự kính trọng và thương tiếc, một nghi lễ hiếm hoi dành cho những người được xem là lãnh tụ mang tầm vóc quốc tế.
Có thể nói cái lớn của Mandela là biết nhìn về phía trước, biết khuyên mọi người nhìn về phía trước để cùng nhau xây dựng một đất nước trong đó luật pháp và sự bình đẳng phải được tôn trọng. Để tránh ngộ nhận, cần lưu ý: Với Mandela, quên quá khứ hay tha thứ những tội ác người khác đã làm cho mình và dân tộc mình không đồng nghĩa với sự thỏa hiệp, nhân nhượng hay dễ dãi. Ngược lại. Lúc nào ông cũng trung thành với một nguyên tắc: công chính. Tha thì tha nhưng sự công chính phải được thực hiện cho mọi người. Sự tha thứ đi liền với sự đòi hỏi một cách quyết liệt. Nhờ thế, quá trình chuyển tiếp từ một chế độ kỳ thị chủng tộc đến một chế độ tự do, bình đẳng và dân chủ mà Mandela thiết lập tại Nam Phi đã trở thành một kiểu mẫu của thế giới.
Từ kinh nghiệm của Nelson Mandela, nhìn lại giới lãnh tụ Việt Nam trong mấy chục năm vừa qua, chúng ta thấy gì?
Thấy, rõ nhất, tầm vóc của họ đều được hình thành từ những gì họ kết thúc: Họ chấm dứt chủ nghĩa thực dân của Pháp năm 1954 và kết thúc sự chia cắt đất nước năm 1975. Nhìn từ góc độ này, một số người trong họ, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, đã được nhiều người Việt Nam ngưỡng mộ và không ít người trên thế giới kính phục. Coi như thần tượng.
Nhưng sau sự kết thúc oanh liệt ấy, họ mở ra những gì?
Chỉ có tai họa.
Trùng trùng tai họa.
Tai họa cho dân chúng.
Tai họa cho đất nước.
Tai họa cho cả nhiều thế hệ mai sau do những con số nợ nần chồng chất, do những cơ chế vừa nặng nề vừa bất nhân lại vừa vô hiệu, và quan trọng hơn, do sự suy thoái về xã hội và băng hoại về đạo đức.
Trong số các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau này, nhìn lại, hầu như chỉ có hai người được khen ngợi ít nhiều vì đã mở ra một cái gì đó: Thứ nhất là Trường Chinh, những năm cuối đời, đã quyết định đổi mới; và thứ hai, Võ Văn Kiệt, người đã có công “xé rào” để dám thay đổi, dù chỉ một phần, một số chính sách kinh tế sai lầm của đảng Cộng sản. Nhưng những cái mới mà cả Trường Chinh lẫn Võ Văn Kiệt mở ra đều là những cái mới nửa vời: Kết quả, người ta chỉ thấy vài cuộc “xé rào” nho nhỏ, vá víu, lặt vặt.
Ngoài Trường Chinh và Võ Văn Kiệt, tất cả những người khác trong giới lãnh đạo đều chỉ biết quay đầu nhìn vào quá khứ, trên đó, người ta xây dựng chiếc ghế và kho tiền của mình.
Điều oái oăm là khi chiếc ghế và kho tiền bạc châu báu của họ càng cao, tầm vóc của họ, dưới mắt quần chúng cũng như trong lịch sử, càng thấp xuống. Càng lùn tịt.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.