Chưa phải đáy?
Sự ổn định tạm thời trên bề mặt do lạm phát hạ nhiệt không phải là chỉ dấu của sự an toàn. Khối thuốc nổ lớn đang nằm trong hệ thống ngân hàng hiện nay là các khoản nợ xấu, và không ai biết quy mô (đi kèm với sức tàn phá) của nó đến đâu.
Ngay cả số liệu chính thức từ Ngân hàng Nhà nước cũng không rõ ràng: chiều 7/6/2012, giải trình trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đưa ra con số nợ xấu tới 10%. Tuy nhiên tại hội nghị sơ kết sáu tháng của ngành ngân hàng ngày 7/7/2012 tại Hà Nội, lại thông báo rằng tính đến cuối tháng 5, tổng nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 4,47% (tương đương 100.000 tỉ đồng) tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa 4.47% và 10% là mức chênh lệch vô cùng lớn, tương đương 241 nghìn tỷ đồng, hoặc khoảng 11,5 tỷ USD.
Mặc dù có nhiều giải pháp được bàn đến để giải quyết khối tài sản “xấu” này, nhưng chưa có bất kỳ động tác kiên quyết nào được thực hiện. Lý do cũng dễ hiểu: Việt Nam đang ở trong tình trạng có rất nhiều ràng buộc và vì thế không dễ gì giải được bài toán nợ xấu một cách nhanh chóng.
Với mối lo khá mơ hồ và cảm tính về việc “đổ vỡ dây chuyền”, Việt Nam không muốn cho bất kỳ ngân hàng nào phá sản, không muốn bất kỳ người gửi tiền nào bị mất tiền, không quốc hữu hóa, và cũng không đủ nguồn lực để bail-out toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp too-big-to-fail, Việt Nam rất dễ, và nhiều khả năng sẽ, rơi vào tình trạng hệ thống ngân hàng dày đặc các zombie banks giống như ở Nhật hồi thập kỷ 90 trước đây (mặc dù lý do Nhật Bản có các zombie banks khác với Việt Nam). Đặc điểm của zombie banks là chúng tồn tại nhưng không còn khả năng cung cấp các chức năng bình thường của ngân hàng, tức là huy động rồi cho vay. Việc này dường như đã bắt đầu từ đầu năm nay khi mà dư địa tín dụng được mở toang nhưng tính đến ngày 30/6/2012, tín dụng tăng trưởng chỉ ở mức 0,76% so với cuối năm 2011.
Hậu quả mà Nhật Bản phải đối phó hồi thập kỷ 90 thường được nhắc đến là một thập kỷ bị đánh mất – tức là một thập kỷ hầu như không có tăng trưởng. Và một tương lai tương tự không phải là không thể xảy ra đối với Việt Nam.
Loay hoay chưa tìm được đường ra
Đã có thời thành tích tăng trưởng liên tục kéo dài vài thập kỷ khiến nhiều người Việt Nam tự tin vào tiềm lực của nền kinh tế, sức mạnh và tài năng của các doanh nhân bản địa, và khả năng điều hành của nhà nước. Giấc mơ hóa rồng là một giấc mơ gây nghiện và có sức lan tỏa cao. Tuy nhiên, sau 5 năm lặn ngụp trong lạm phát, khó khăn và đình đốn, với nhiều người thì giấc mơ này đã tan thành mây khói.
Thực tế đã cho nhiều người Việt thấy không có một nền kinh tế nào không thể rơi vào khủng hoảng, kể cả Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng không phải quá suất sắc, đặc biệt trong chuyện điều hành và quản trị rủi ro, thậm chí nhiều khi tương đối mù quáng và tham lam. Chính phủ Việt Nam cũng không giỏi về mặt điều hành nền kinh tế, nếu không muốn nói là trong nhiều mặt còn yếu kém. Các chuyên gia của Việt Nam cũng không giỏi về việc phân tích, dự đoán, và tư vấn chính sách cho nhà nước.
Đó là chưa kể Việt Nam còn gánh trên vai gánh nặng di sản của chính sách kinh tế cũ, đó là khối doanh nghiệp nhà nước. Đây là khối khổng lồ các doanh nghiệp tiêu dùng rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế nhưng hoạt động rất kém hiệu quả, và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay. Chìa khóa để giải bài toán doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa có. Không phải vì không thể nghĩ ra, mà vì có nghĩ ra cũng không thực hiện được do sự đan chéo của rất nhiều nhóm lợi ích.
Câu chuyện đầu tư công cũng vậy, ai cũng biết đầu tư công ở Việt Nam không có hiệu quả cao. Nói cho công bằng, điều này không riêng ở Việt Nam, mà ở phần lớn các nước đang phát triển đều là vậy. Thế nhưng câu chuyện ở Việt Nam khác một chút, đó là việc phải dựa vào đầu tư công để tăng trưởng, ít ra là trong khoảng gần mười năm trở lại đây. Chính vì thế, nó tạo thành một thứ tiến thoái lưỡng nan rất khó chịu cho nhà nước: nếu không giảm đầu tư công, thì tình trạng kém hiệu quả còn tiếp diễn, tất dẫn tới tiềm năng tăng trưởng dài hạn bị mai một. Nhưng nếu giảm đầu tư công thì tăng trưởng ngắn hạn lại bị ảnh hưởng nặng, và điều này làm tổn hại uy tín chính trị của Chính phủ. Đó là chưa kể việc giảm đầu tư công, cũng như việc cải cách doanh nghiệp nhà nước, gặp rất nhiều rắc rối không giải quyết được do sự đan chéo của các nhóm lợi ích.
Câu chuyện cải cách ngân hàng và giải quyết nợ xấu tưởng chừng đơn giản hơn nhưng thực ra lại không phải vậy. Con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng hiện nay quá lớn, và nhà nước thực tế không có đủ lực để gánh cục nợ này. Đối với các ngân hàng tư nhân, việc giải quyết nợ xấu không phải quá khó. Khu vực tư nhân có thể tự mua bán nợ xấu của nhau, và thị trường sẽ giúp định giá giá trị của các tài sản nợ này như thế nào. Thế nhưng một phần rất lớn nợ xấu là nằm trong balance sheet của các ngân hàng quốc doanh, hoặc do nhà nước nắm sở hữu chi phối. Sẽ không thể ép các ngân hàng này phải đánh tụt giá trị của các khoản cho vay và thanh lý các khoản nợ xấu. Lý do là khi đi sâu vào các câu chuyện này sẽ dẫn tới vấn đề trách nhiệm thuộc về ai, và nhiều người sẽ bị liên đới. Hệ thống các quan hệ lợi ích chằng chịt sẽ không thể cho phép các vấn đề này được phanh phui.
Và như thế một câu chuyện khác là dùng tiền nhà nước để mua nợ xấu. Đi kèm với nó sẽ là định giá hời để không ai (hoặc ít người) bị mất mặt hoặc phải chịu trách nhiệm về các tổn thất hoặc thất thoát. Thế nhưng giải pháp này cũng bế tắc nốt, vì một lý do đơn giản là tiền ở đâu ra?
Đấu tranh để tồn tại
Dưới góc độ vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước một bài toán khó, có lẽ là khó nhất từ kể trong lịch sử khiêm tốn về kinh tế thị trường của Việt Nam hiện đại. Trong khi thị trường đầu ra bị thu hẹp nghiêm trọng, lãi suất các khoản vay vẫn còn rất cao và khả năng vay mượn thêm khá bi đát, câu chuyện xoay đủ vốn để cầm cự tiếp trở thành câu chuyện tồn tại hay không tồn tại.
Có một khe cửa hẹp để giúp các doanh nghiệp này, đó là dòng vốn tìm đến mục tiêu mua bán và sáp nhập (M&As). Về triển vọng dài hạn, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế đang phát triển còn nhiều tiềm năng để tiếp tục bứt phá. Điều này khiến cho nhiều nhà đầu tư quốc tế đang hướng sự chú ý tới các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ các quốc gia mà khả năng phát triển hầu như đã bị bão hòa. Nhật Bản là một trong các quốc gia có sự quan tâm mạnh mẽ nhất đến việc tìm mua hoặc đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, cánh cửa này chỉ là một cánh cửa hẹp. Nó không phải là một thứ thuốc an thần mà ai cũng có thể mua được ngoài chợ. Dòng vốn này chỉ tìm đến với một số doanh nghiệp tốt nhất, có nhiều tiềm năng nhất, được quản trị bài bản nhất trong các ngành có sức hấp dẫn nhất ở Việt Nam trong trung hạn. Nó cũng chỉ đến được với các doanh nghiệp biết cách săn lùng và tiếp cận với nó.
Dẫu là một cánh cửa hẹp, nhưng có còn hơn không.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Sự ổn định tạm thời trên bề mặt do lạm phát hạ nhiệt không phải là chỉ dấu của sự an toàn. Khối thuốc nổ lớn đang nằm trong hệ thống ngân hàng hiện nay là các khoản nợ xấu, và không ai biết quy mô (đi kèm với sức tàn phá) của nó đến đâu.
Ngay cả số liệu chính thức từ Ngân hàng Nhà nước cũng không rõ ràng: chiều 7/6/2012, giải trình trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đưa ra con số nợ xấu tới 10%. Tuy nhiên tại hội nghị sơ kết sáu tháng của ngành ngân hàng ngày 7/7/2012 tại Hà Nội, lại thông báo rằng tính đến cuối tháng 5, tổng nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 4,47% (tương đương 100.000 tỉ đồng) tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa 4.47% và 10% là mức chênh lệch vô cùng lớn, tương đương 241 nghìn tỷ đồng, hoặc khoảng 11,5 tỷ USD.
Mặc dù có nhiều giải pháp được bàn đến để giải quyết khối tài sản “xấu” này, nhưng chưa có bất kỳ động tác kiên quyết nào được thực hiện. Lý do cũng dễ hiểu: Việt Nam đang ở trong tình trạng có rất nhiều ràng buộc và vì thế không dễ gì giải được bài toán nợ xấu một cách nhanh chóng.
Với mối lo khá mơ hồ và cảm tính về việc “đổ vỡ dây chuyền”, Việt Nam không muốn cho bất kỳ ngân hàng nào phá sản, không muốn bất kỳ người gửi tiền nào bị mất tiền, không quốc hữu hóa, và cũng không đủ nguồn lực để bail-out toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như các doanh nghiệp too-big-to-fail, Việt Nam rất dễ, và nhiều khả năng sẽ, rơi vào tình trạng hệ thống ngân hàng dày đặc các zombie banks giống như ở Nhật hồi thập kỷ 90 trước đây (mặc dù lý do Nhật Bản có các zombie banks khác với Việt Nam). Đặc điểm của zombie banks là chúng tồn tại nhưng không còn khả năng cung cấp các chức năng bình thường của ngân hàng, tức là huy động rồi cho vay. Việc này dường như đã bắt đầu từ đầu năm nay khi mà dư địa tín dụng được mở toang nhưng tính đến ngày 30/6/2012, tín dụng tăng trưởng chỉ ở mức 0,76% so với cuối năm 2011.
Hậu quả mà Nhật Bản phải đối phó hồi thập kỷ 90 thường được nhắc đến là một thập kỷ bị đánh mất – tức là một thập kỷ hầu như không có tăng trưởng. Và một tương lai tương tự không phải là không thể xảy ra đối với Việt Nam.
Loay hoay chưa tìm được đường ra
Đã có thời thành tích tăng trưởng liên tục kéo dài vài thập kỷ khiến nhiều người Việt Nam tự tin vào tiềm lực của nền kinh tế, sức mạnh và tài năng của các doanh nhân bản địa, và khả năng điều hành của nhà nước. Giấc mơ hóa rồng là một giấc mơ gây nghiện và có sức lan tỏa cao. Tuy nhiên, sau 5 năm lặn ngụp trong lạm phát, khó khăn và đình đốn, với nhiều người thì giấc mơ này đã tan thành mây khói.
Thực tế đã cho nhiều người Việt thấy không có một nền kinh tế nào không thể rơi vào khủng hoảng, kể cả Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng không phải quá suất sắc, đặc biệt trong chuyện điều hành và quản trị rủi ro, thậm chí nhiều khi tương đối mù quáng và tham lam. Chính phủ Việt Nam cũng không giỏi về mặt điều hành nền kinh tế, nếu không muốn nói là trong nhiều mặt còn yếu kém. Các chuyên gia của Việt Nam cũng không giỏi về việc phân tích, dự đoán, và tư vấn chính sách cho nhà nước.
Đó là chưa kể Việt Nam còn gánh trên vai gánh nặng di sản của chính sách kinh tế cũ, đó là khối doanh nghiệp nhà nước. Đây là khối khổng lồ các doanh nghiệp tiêu dùng rất nhiều nguồn lực của nền kinh tế nhưng hoạt động rất kém hiệu quả, và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra tình trạng khủng hoảng toàn diện hiện nay. Chìa khóa để giải bài toán doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa có. Không phải vì không thể nghĩ ra, mà vì có nghĩ ra cũng không thực hiện được do sự đan chéo của rất nhiều nhóm lợi ích.
Câu chuyện đầu tư công cũng vậy, ai cũng biết đầu tư công ở Việt Nam không có hiệu quả cao. Nói cho công bằng, điều này không riêng ở Việt Nam, mà ở phần lớn các nước đang phát triển đều là vậy. Thế nhưng câu chuyện ở Việt Nam khác một chút, đó là việc phải dựa vào đầu tư công để tăng trưởng, ít ra là trong khoảng gần mười năm trở lại đây. Chính vì thế, nó tạo thành một thứ tiến thoái lưỡng nan rất khó chịu cho nhà nước: nếu không giảm đầu tư công, thì tình trạng kém hiệu quả còn tiếp diễn, tất dẫn tới tiềm năng tăng trưởng dài hạn bị mai một. Nhưng nếu giảm đầu tư công thì tăng trưởng ngắn hạn lại bị ảnh hưởng nặng, và điều này làm tổn hại uy tín chính trị của Chính phủ. Đó là chưa kể việc giảm đầu tư công, cũng như việc cải cách doanh nghiệp nhà nước, gặp rất nhiều rắc rối không giải quyết được do sự đan chéo của các nhóm lợi ích.
Câu chuyện cải cách ngân hàng và giải quyết nợ xấu tưởng chừng đơn giản hơn nhưng thực ra lại không phải vậy. Con số nợ xấu trong hệ thống ngân hàng hiện nay quá lớn, và nhà nước thực tế không có đủ lực để gánh cục nợ này. Đối với các ngân hàng tư nhân, việc giải quyết nợ xấu không phải quá khó. Khu vực tư nhân có thể tự mua bán nợ xấu của nhau, và thị trường sẽ giúp định giá giá trị của các tài sản nợ này như thế nào. Thế nhưng một phần rất lớn nợ xấu là nằm trong balance sheet của các ngân hàng quốc doanh, hoặc do nhà nước nắm sở hữu chi phối. Sẽ không thể ép các ngân hàng này phải đánh tụt giá trị của các khoản cho vay và thanh lý các khoản nợ xấu. Lý do là khi đi sâu vào các câu chuyện này sẽ dẫn tới vấn đề trách nhiệm thuộc về ai, và nhiều người sẽ bị liên đới. Hệ thống các quan hệ lợi ích chằng chịt sẽ không thể cho phép các vấn đề này được phanh phui.
Và như thế một câu chuyện khác là dùng tiền nhà nước để mua nợ xấu. Đi kèm với nó sẽ là định giá hời để không ai (hoặc ít người) bị mất mặt hoặc phải chịu trách nhiệm về các tổn thất hoặc thất thoát. Thế nhưng giải pháp này cũng bế tắc nốt, vì một lý do đơn giản là tiền ở đâu ra?
Đấu tranh để tồn tại
Dưới góc độ vi mô, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước một bài toán khó, có lẽ là khó nhất từ kể trong lịch sử khiêm tốn về kinh tế thị trường của Việt Nam hiện đại. Trong khi thị trường đầu ra bị thu hẹp nghiêm trọng, lãi suất các khoản vay vẫn còn rất cao và khả năng vay mượn thêm khá bi đát, câu chuyện xoay đủ vốn để cầm cự tiếp trở thành câu chuyện tồn tại hay không tồn tại.
Có một khe cửa hẹp để giúp các doanh nghiệp này, đó là dòng vốn tìm đến mục tiêu mua bán và sáp nhập (M&As). Về triển vọng dài hạn, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế đang phát triển còn nhiều tiềm năng để tiếp tục bứt phá. Điều này khiến cho nhiều nhà đầu tư quốc tế đang hướng sự chú ý tới các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các nhà đầu tư đến từ các quốc gia mà khả năng phát triển hầu như đã bị bão hòa. Nhật Bản là một trong các quốc gia có sự quan tâm mạnh mẽ nhất đến việc tìm mua hoặc đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, cánh cửa này chỉ là một cánh cửa hẹp. Nó không phải là một thứ thuốc an thần mà ai cũng có thể mua được ngoài chợ. Dòng vốn này chỉ tìm đến với một số doanh nghiệp tốt nhất, có nhiều tiềm năng nhất, được quản trị bài bản nhất trong các ngành có sức hấp dẫn nhất ở Việt Nam trong trung hạn. Nó cũng chỉ đến được với các doanh nghiệp biết cách săn lùng và tiếp cận với nó.
Dẫu là một cánh cửa hẹp, nhưng có còn hơn không.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.